Thứ Sáu, 23 tháng 6, 2017

Bình gốm men trắng vẽ thiên nga lam – một bảo vật quốc gia ( phần 2)

Kỹ thuật tạo ra gốm xanh lam là một sự đổi mới tuyệt vời của lịch sử gốm sứ Trung Quốc và chúng đã trở thành một yếu tố quan trọng trong thương mại xuất khẩu của Trung Quốc. Màu xanh và Trắng: Hành trình bằng Gốm sứ truyền đạt sự phổ biến của đồ gốm màu xanh-trắng trong suốt nhiều thế kỷ ở những nơi khác nhau trên thế giới. Triển lãm sẽ trưng bày các vật thể khác nhau, từ những giai đoạn đầu của sản xuất gốm trắng và xanh đến những ví dụ hiện nay.

"Đồ gốm màu xanh và trắng" bao gồm nhiều loại đồ gốm và đồ sứ trắng được trang trí dưới lớp men với một sắc tố màu xanh da trời, thường là ôxit coban. Các trang trí thường được sử dụng bằng tay, ban đầu bằng cách vẽ bàn chải, nhưng ngày nay bằng cách đánh dấu hoặc in chuyển, mặc dù các phương pháp ứng dụng khác cũng đã được sử dụng.

Màu xanh và trắng trang trí đầu tiên đã trở thành sử dụng rộng rãi trong sứ Trung Quốc trong thế kỷ 14, sau khi màu coban cho màu xanh đã bắt đầu được nhập khẩu từ Ba Tư. Một phong cách trang trí dựa trên các mẫu thực vật rậm rạp trải dài khắp vật thể đã được hoàn thiện và được sử dụng phổ biến nhất. Nó đã được xuất khẩu rộng rãi, và lấy cảm hứng từ các sản phẩm giả tạo trong đồ gốm Hồi giáo và các đồ dùng bằng sứ thạch cao sau đó như Delftware và sau khi các kỹ thuật được phát hiện vào thế kỷ 18, đồ sứ Châu Âu. Gốm màu xanh và trắng trong tất cả các truyền thống này vẫn tiếp tục được sản xuất, hầu hết là sao chép các phong cách trước đó.
Về nguồn gốc sản xuất chiếc bình gốm hoa lam này, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng từ khu lò gốm Chu Đậu, nơi đã có nhiều cuộc khai quật khảo cổ học của Bảo tàng Hải Dương phối hợp với các chuyên gia nghiên cứu Australia.    
Sự hiểu biết của chúng tôi về sự ra đời, phát triển và hẹn hò của đồ trang trí bằng đồ lót Việt Nam được dựa trên những giả định hợp lý. Chúng tôi giả định rằng sứ đồ trang trí bằng sứ xanh của Trung Quốc cung cấp sự kích thích cho việc sản xuất hàng may mặc xanh trắng tại Việt Nam. Điều này có thể xảy ra do xuất khẩu từ chất lượng cao đến các sản phẩm thông thường của lò nung chủ yếu ở Jingdezhen. Cho dù có khả năng những người thợ Trung Quốc nhập cư đã góp phần vào ngành công nghiệp thế kỷ 14 mới này là đáng tranh cãi. Một số địa điểm lò sản xuất các mặt hàng xanh trắng tại khu vực lân cận Hà Nội, những phần còn lại được phát hiện trong thời gian gần đây, cũng như lò nung vẫn hoạt động ngày nay, được cho là đã được sản xuất vào giữa thế kỷ 15 hoặc 16. Gốm trang trí bằng gốm trang trí bằng gốm trang trí bằng gốm màu xanh trang trí thời tiền sử từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 16 là chai nổi tiếng trong Bảo tàng Topkapi Saray ở Istanbul vào năm 1450. Điều này càng quan trọng vì không có thời kỳ trị vì trên đồ sứ Việt Nam. Trong khi thể hiện tham khảo mạnh mẽ đến các đồ sứ Trung Quốc trước đây, các đặc điểm của chai như hình dạng, thành phần của thiết kế, và một số chi tiết của thiết kế thể hiện các đặc trưng địa phương, hoặc hương vị địa phương dường như có đặc điểm là đồ ăn Việt Nam xanh trắng Ngay từ ban đầu. Một tấm với một thiết kế nhanh chóng hơn, giản dị, và slick rõ ràng là một cách tiếp cận khá khác nhau để trang trí. Phong cách này đặc biệt phổ biến trong thế kỷ 16 khi xuất khẩu nước ngoài, ví dụ như Indonesia và Nhật Bản, đòi hỏi tăng lên, và kết quả là sản xuất nhanh hơn.

Làng gốm Chu Đậu (nay thuộc xã Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) là một trung tâm sản xuất gốm lớn nhất của đất nước ta ra đời vào thế kỷ 14 và phát triển rực rõ nhất vào thế kỷ 15-16.  Làng gốm Chu Đậu sản xuất những loại gốm cao cấp, gốm mỹ nghệ, phục vụ tôn giáo, tín ngưỡng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Dòng gốm Chu Đậu có sự kết hợp nhiều kỹ thuật trang trí như đắp nổi, chạm, dán ghép, khắc chìm, vẽ lam, vẽ nhiều màu và vàng kim trên men. Các loại men sử dụng với nhiều sắc độ khác nhau như: men trắng vẽ lam, men nâu, xanh lục, men ngọc, men trắng vẽ tam thái hoặc kết hợp vẽ vàng kim trên men. Tuy nhiên, cho đến nay còn có ý kiến của TS.Bùi Minh Trí (Trung tâm nghiên cứu kinh thành) cho rằng chiếc bình gốm hoa lam vẽ thiên nga này được sản xuất từ khu vực lò gốm của kinh thành Thăng Long (Hà Nội).

Bình gốm men trắng vẽ thiên nga xanh là một minh chứng cho sự phát triển của gốm hoa lam 

Với chiếc bình gốm hoa lam vẽ thiên nga này, từ kiểu dáng, kích thước cho đến trang trí là một minh chứng đỉnh cao của dòng gốm hoa lam. Những đề tài trang trí ở đây chẳng những đã thoát ra khỏi khuôn mẫu của đề tài kinh điển Trung Hoa mà còn được thể hiện tính phóng khoáng, sáng tạo, đậm chất dân gian, hồn quê đất Việt vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Qua những đề tài thể hiện trên bình gốm cho ta hình dung về một vẻ đẹp của quê hương đất nước Việt Nam thời Lê sơ tk 15, một quốc gia hùng mạnh ở Đông Nam Á thời bấy giờ.

Chiếc bình gốm này xứng đáng là một tác phẩm gốm nghệ thuật độc đáo, vật chứng tiêu biểu của nghề gốm truyền thống Việt Nam ở thế kỷ 15.

Kể từ khi nhập về kho Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đến nay chiếc bình này đã được giới thiệu trong nhiều cuộc trưng bày chuyên đề ở trong và ngoài nước. Trên cơ sở giá trị đặc biệt quý hiếm của chiếc bình gốm hoa lam vẽ thiên nga này, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1426/QĐ-TTg ngày 1/10/2012 công nhận là bảo vật Quốc gia đợt 1 cùng với 30 hiện vật, nhóm hiện vật lựa chọn trong khối di sản văn hóa Việt Nam.


Cổ vật gốm hoa lam vẽ thiên nga tại bảo tang quốc gia ( phần 1)

Chiếc bình gốm hoa lam vẽ thiên nga là một đại diện tiêu biểu cho dòng gốm men trắng vẽ lam, thường gọi là gốm hoa lam. Dòng gốm hoa lam Việt nam xuất hiện từ thời Trần thế kỷ 14 và phát triển liên tục cho tới ngày nay. Đặc biệt vào thế kỷ 15 dòng gốm hoa lam đã phát triển tới đỉnh cao chẳng những đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới.

Qua nhiều tài liệu đã công bố ở nước ngoài như Thái Lan, Indonesia, Philippin, Singapore, Nhật Bản… và các nước vùng Trung Đông chúng tôi đều thấy nhiều loại hình gốm hoa lam Việt Nam rất đặc biệt. Đáng chú ý nhất là chiêc bình gốm hoa lam hiện đang lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Topkapi Saray, Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ. Trên chiếc bình này có dòng minh văn viết bằng men lam: “Đại Hòa bát niên tượng nhân Nam Sách châu Bùi thị hý bút”. Nội dung của minh văn này cho biết chiếc bình do người thợ họ Bùi ( hay Bùi Thị Hý ) vẽ vào năm thứ 8 của niên hiệu Đại Hòa đời vua Lê Nhân Tông, 1450.

Chiếc bình gốm hoa lam vẽ thiên nga là chiếc bình gốm thuộc sưu tập độc bản trong tàu cổ Cù Lao Chàm khai quật vào năm 1999 – 2000 mà Bảo tàng Lịch sử Quốc gia được lưu giữ và trưng bày.

Bình gốm hoa lam trang trí thiên nga trên gốm 

Số l­ượng hiện vật trong con tàu Cù Lao Chàm với hơn 240 nghìn, không kể hàng vạn mảnh vỡ, hàng nghìn hiện vật đã bị trục vớt trước khi khai quật khảo cổ là một con số khổng lồ. Trong số hàng hóa này có cả một số gốm Chămpa, Trung Quốc và Thái Lan, được các nhà nghiên cứu thống nhất cho là đồ dùng của thủy thủ đoàn. Phần còn lại là hàng hóa gốm sứ có nguồn gốc sản xuất ở Hải Dương và Thăng Long phía Bắc Việt Nam.

Các tác phẩm nghệ thuật bằng sứ có nhiều màu sắc rực rỡ, nhưng đồ sứ màu xanh và trắng có một sức hút độc nhất trong sự đơn giản của nó. Màu xanh đậm là từ oxit coban, và vì nó được nhập khẩu từ Ba Tư vào những ngày xưa, vật liệu này có biệt danh là "màu xanh Hồi giáo". Khi đồ sứ được giới thiệu ở châu Âu vào thế kỷ 14, nó đã trở thành một cơn sốt lớn, và được biết đến như là "vàng trắng". Ngày nay, những vật thể như vậy vẫn được đánh giá cao và thu thập. Cho dù chúng được trưng bày trên tường của bạn, đeo như đồ trang sức, hoặc đặt ở bàn ăn của bạn, những mảnh này sẽ giành được sự ngưỡng mộ của khách hàng của bạn. Nó phản ánh lớp học của bạn và hương vị tuyệt vời trong nghệ thuật, và cũng sẽ cung cấp cho bạn một chủ đề đàm thoại thú vị.

Kỷ nguyên tốt nhất của Sứ màu xanh và trắng

Mặc dù nghệ thuật phức tạp của Trung Quốc màu xanh lá cây ngày trở lại Trung Quốc vào thế kỷ 9, nó đã được hoàn thiện trong kỷ nguyên của triều đại nhà Minh vào thế kỷ 14. Các đất sét Kaolin cho những mảnh quý này có nguồn gốc từ một ngôi làng Trung Quốc gọi là Jingdezhen, và do đó, nơi này bây giờ được coi là thủ đô sứ của thế giới. The Mings đã giải quyết được vấn đề của các tác phẩm nghệ thuật mờ trong đồ sứ đã hoàn thành, vốn là phổ biến cho đến khi thời gian của họ, bằng cách thêm một lượng nhỏ mangan vào sắc tố coban dựa trên. Sự bổ sung này ngăn chặn coban khỏi chảy máu khi đưa vào lò nung nóng, mặc dù với chi phí làm giảm nhẹ sự phong phú của màu xanh da trời. Tuy nhiên, họ đã sử dụng điều này để lợi thế của họ bằng cách chơi với màu sắc khác nhau của màu xanh trong thiết kế sứ.

Những nơi trong nhà không nên treo chuông gió

CHuông gió là phương pháp chữa bệnh phong thủy rất phổ biến, do đó, có nhiều cách bạn có thể sử dụng chúng cho phong thủy tốt. Theo tôi, chuông gió thuộc về nhà - trong vườn, sân hiên hoặc ban công. Có một lý do tại sao chúng được gọi là chuông gió!

Đây không phải là để nói rằng tôi sẽ không sử dụng một chuông gió nhỏ bên trong nhà, đặc biệt là nếu gió kêu vang có ít đá tinh thể trong nó, ví dụ. Cũng như việc sử dụng bất cứ liệu pháp chữa bệnh phong thủy nào, tôi luôn khuyến khích độc giả và khách hàng tin tưởng ý nghĩa của họ về vị trí tốt nhất của một đối tượng cụ thể trong nhà của họ.

 
Chuông gió sẽ thật sự trở nên rất hữu ích trong nhà nếu bạn biết sử dụng nó đúng cách  
Hãy để tôi cung cấp cho bạn tất cả các thông tin bạn cần biết để có thể đưa ra một quyết định khôn ngoan về vị trí tốt nhất của gió kêu vang cho phong thủy tốt.

Theo các trường học phong thủy truyền thống, chuông gió được sử dụng để chữa các nguồn năng lượng tiêu cực, đó là năng lượng tiêu cực hàng năm của phong thủy hoặc cố định đồ đạc cố định trong nhà.
Những vị trí tránh treo chuông gió
Dân gian tương truyền, tiếng chuông gió có thể “chiêu âm”. Do vậy, chuông gió không nên treo ở trên đường quỷ (quỷ tuyến) của ngôi nhà. Đường quỷ được xác định bằng cách vẽ một đường thẳng từ Đông Bắc của ngôi nhà đến phía Tây Nam ở đối diện.

Chuông gió không nên treo trong phòng vệ sinh. Bởi vì như ở trên đã nói, chuông gió khi rung động sẽ “chiêu âm”, mà âm khí của phòng vệ sinh rất nặng, sẽ dẫn tới điều không lành.

Khí trường của phòng ngủ thích hợp tĩnh không thích hợp động, do vậy cũng không nên treo chuông gió.
Phòng bếp có hỏa khí. Treo chuông gió sẽ kích thích những hỏa khí này, cho nên cũng không nên treo chuông gió trong phòng bếp.

Tuy nhiên, chuông gió cũng được phân ra từng loại khác nhau theo từng loại chất liệu, số thanh của chuông, từ đó chọn hướng cửa phù hợp nhất để treo.

Cụ thể: Với chuông gió bằng kim loại bạn nên chọn hướng treo ở Tây, Tây Bắc và hướng Bắc. Chuông gió chất liệu bằng tre, gỗ chọn hướng Đông, Đông Nam và hướng Nam. Còn đối với loại chuông được làm bằng chất liệu sứ, đất sét nung…là hiện diện của mệnh Thổ, nên chọn các vị trí trung tâm, Tây Nam, Đông Bắc, Đông và Đông Nam của ngôi nhà.

Không treo gió lên trên cửa chính và những cánh cửa trong căn nhà mà khi di chuyển bạn có thể dễ dàng đụng trúng nó.

-Không treo dây leo gió trên cây. Kim loại trong cây làm cho các nguyên tố va chạm. Treo chuông gió bằng gỗ rất tốt khi treo  trên cây.
-Không treo một tiếng chuông gió trên nơi bạn ngồi, ăn, làm việc, hoặc ngủ để bạn đang trực tiếp dưới nó.
-DO treo gió thích hợp cho hướng cửa trước của bạn phải đối mặt ở hai bên cửa trước của bạn nếu cửa của bạn phải đối mặt với bãi đỗ xe, đường đi bộ hoặc các trở ngại khác, chẳng hạn như mũi tên độc, cây, v.v ...

Những điều cân biết khi treo chuông gió
-Nên treo chuông gió ở khu vực có nhiều hơn hai cửa theo đường thẳng

-Nên  sử dụng chuông 5 thanh hoặc rung rắn cho phòng tắm ở khu vực phía Đông, Đông Nam, Bắc, Nam, Tây

-Nên sử dụng chuông bằng gỗ rỗng cho phòng tắm nằm ở khu vực trung tâm, hướng TN, hoặc TB



-Nên sử dụng sáu bộ chuông rỗng sáu thanh để đánh dấu một góc TB mất tích - hữu ích nếu bạn đang tìm kiếm để thu hút một người đàn ông nếu bạn là độc thân, được giúp đỡ nhiều hơn từ những người có ảnh hưởng, hoặc giúp đỡ các tộc trưởng của một hộ gia

Thứ Năm, 22 tháng 6, 2017

“Thưởng thức trà” trong cuộc sống bận rộn


Trong giai đoạn từ 13 đến thế kỷ 15, người Việt Nam tin rằng trà mang nhiều giá trị triết học, vì nó là nguồn tinh khiết của tinh thần. Đọc sách và tiêu thụ chè đã được nhiều học giả Việt Nam lựa chọn như là một phương tiện để thoát khỏi những mối quan ngại nhỏ nhặt của đời sống hỗn độn, để đạt được sự giác ngộ và an tâm. Uống trà đã được cho là giúp cải thiện tính cách của một người, đánh bóng cách của mình, và đánh giá cá tính của mình. Những người uống trà tập trung được coi là có cách cư xử tốt, trong khi các nghệ nhân chè có khả năng đổ trà vào bát xếp thành vòng tròn mà không bị tràn giọt được các đồng nghiệp ngưỡng mộ.

Văn hóa dùng trà Việt - dân ta hầu như dùng trà trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi 

Phong cách uống trà của Việt Nam rất đa dạng và không có tiêu chuẩn cố định và truyền đạt một cách sáng tạo ngôn ngữ của người dân. Qua thời gian, chè dần dần có chỗ đứng riêng trong cuộc sống hàng ngày của người dân, quý tộc và những người bình thường, sống trong thành phố và ở nông thôn.

Trà tại nhà
Bên cạnh các buổi lễ đặc biệt như lễ cưới, tang lễ hay các nghi lễ truyền thống khác, trà được phục vụ nhiều lần mỗi ngày tại mỗi nhà của Việt Nam. Thức dậy vào buổi sáng, nhiều người cao tuổi thích uống một tách trà nóng nóng trước khi bắt đầu một ngày mới với hy vọng làm mới và lắng nghe. Hàng hiên hoặc sân vườn ở sân sau là một trong những nơi ưa thích nhất để trà thưởng thức sự gần gũi của nó với thiên nhiên, như một số không khí trong lành có thể cho thêm hương vị cho trà.

Người Việt Nam tin rằng trà kết hợp mọi người và bày tỏ lòng hiếu khách; Vì thế mọi người thường mời bạn bè hoặc hàng xóm của họ đi chơi trò chuyện trên một cốc trà. Trà cũng được sử dụng để làm dịu những cuộc cãi cọ nóng lên bằng cách pha loãng cơn giận của một người. Hơn nữa, uống trà sau bữa ăn, đặc biệt là bữa tối, cũng là một thói quen mà rất nhiều người yêu thích, khi các thành viên trong gia đình có thể tập trung, nói về những gì họ đã làm trong ngày.

Bôi ( chèn trà) và Bình ( ấm trà ): Chèn trà thường dùng chén cỡ hột mít hay mắt trâu, bình trà thì có bình chuyên và bình tống. Trước khi pha trà thì dùng nước sôi để tráng chén và bình, tưới nước lên bình trà, rồi đổ nước ấm lên các chén trà để làm nóng và sạch. Cho trà vào ấm phải vừa đủ lượng (cho ít quá thì nhạt, còn cho nhiều quá thì đắng chát). Rót nước pha trà vừa ngập mặt trà rồi đổ đi để “rửa trà”: Tửu tam trà nhị (rượu chén đến thứ ba mới bắt đầu ngấm, trà nước thứ hai mới ngon). Sau đó rót nước gần đầy bình và đạy nắp, rồi rót thêm lên trên nắp bình một ít nước nóng để giữ được hương trà. Đợi khoảng 1-2 phút để trà chín và rót ra để thưởng thức.

“ Ngũ quần anh ” là người thưởng trà, bạn trà. Bạn trà khó tìm hơn bạn rượu, có được bạn trà là có được người hiểu mình, là tri kỷ. Rót trà ra mời bạn cũng cần lưu ý, nếu có chén tống ( là chén to nhất ) thì rót ra chén tống trước rồi chia ra các chén quân. Còn nếu không có chén tống, rót thẳng vào chén quân thì rót lần lượt ít một vào từng chén, rồi xoay vòng rót ngược lại. Như thế, các chén trà đều đậm đà như nhau. Khi rót thì thấp tay một chút cho dòng nước chảy vào chén. Tất cả các giai đoạn thưởng trà từ chọn nước, chọn trà, pha trà và rót trà đều phản ánh văn hoá truyền thống và tinh hoa dân tộc Việt Nam, được gìn giữ hàng ngàn năm nay.

Rượu ngâm nga, trà liền tay:  Mời trà thì mời từ người lớn tuổi nhất, cũng giống như mời ăn uống bình thường. Trà rót cũng rót từ chén của người lớn tuổi nhất, chè rót ra phải uống ngay khi còn nóng.Tay nâng ly trà, nhấp từng ngụm nhỏ, thưởng thức trà bằng tất cả tâm hồn, bằng những cảm xúc giác quan, mắt nhìn, mũi ngửi, tai nghe, lưỡi nếm, tay cầm. Hương vị trà truyền thống đọng lại ở cổ sau khi uống cũng như văn hoá dân tộc mãi còn đọng lại trong mỗi con người Việt Nam.

Thứ Tư, 21 tháng 6, 2017

Giai đoạn thời Lê - Nguyễn và đồ gốm thời đó ( phần 3)

     2000 năm của gốm Việt Nam đã phản ánh 4000 năm lịch sử và văn hoá Việt Nam. Những gốm sứ này không chỉ là di sản văn hoá tự hào mà còn là nền tảng vững chắc cho sự phát triển sản xuất gốm Việt Nam trong một thế giới ngày càng hội nhập.

Dưới đầu thời Lê (thế kỷ XV-16), men trắng Việt Nam đạt đến đỉnh cao, có men trắng trắng tinh khiết, thân bằng đất sét mỏng, trong suốt, và tương tự như đồ sứ trắng. Nhiều sản phẩm gốm có tính chất Trung Hoa quan trọng được tìm thấy ở Thăng Long (Hà Nội), Lâm Kinh (Thanh Hoá), vụ đắm tàu cổ đại tại đảo Cù Lao Chàm (Quảng Nam) là hàng cao cấp cho triều đình và xuất khẩu.
Dưới triều Lê-Nguyễn (thế kỷ 17-19)  đồ gốm men trắng có vết nứt cứng, ví dụ như một số đồ vật tôn thờ bảo quản và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Bộ sưu tập gốm sứ trắng trang trí các sản phẩm của nhiều loại trong tất cả ba giai đoạn phát triển này.

Bộ sưu tập gốm sứ thời Nguyễn được trưng bày tại viện bảo tàng 

     Chẳng hạn như chiếc chân đèn cao, thớt trên xòe rộng, giữa cổ phình rộng, bụng tròn dẹt, chân đế cao. Toàn thân phủ men trắng ngà, trên thân có nhiều vành nổi tô màu nâu, thân chân và cổ vẽ lam các vành văn lá chuối, cúc dây,v.v.. Hay như chiếc lư hương có bình diện vuông, 4 mặt miệng có diểm khắc nổi hoa văn đẹp, 4 góc gắn 4 tượng nghê, thân vuông 4 mặt phồng lên, trong các khung khắc nổi hình tứ linh. Chân đế thuộc loaị chân quỳ, khắc nổi văn hoa lá. Toàn thân phủ men trắng ngà, hoa văn màu gạch non . Cũng có lư hương bình diện tròn, miệng rộng sâu lòng, thân hình cầu , 4 chân cao hình hổ phù đặt trên đế liền, hai tai vươn cao đắp nổi hai chữ Hán “Phật Tâm”. Toàn thân phủ men xanh lục phớt vàng, khắc chìm và đắp nổi các loại hoa sen hoa cúc và văn răng lược.

     Các loại đồ thờ hoa văn đắp nổi kết hợp vẽ màu lam phần lớn sản xuất vào thời Lê – Mạc, thế kỷ 16 – 17. Gốm hoa lam Chu Đậu, Hợp Lễ phát triển rực rỡ suốt 3 thế kỷ thời Lê sơ – Mạc đánh dấu nột thời kỳ huy hoàng của lịch sử đồ gốm nước ta. Từ thể kỷ 18 về sau gốm hoa lam vùng Chu Đậu, Hợp Lễ hầu như tắt lịm. Cho đến nay, chùng ta chưa biết được một cách chắc chắn lý do của sự suy thoái này. Rất có thể, đấy là thời kỳ nhà nước phong kiến nước ta bước vào giai đoạn khủng khoảng, suy thoái và thực dân phương Tây bắt đầu dòm ngó xâm lược.

     Nhiều ngành công nghiệp, thủ công nghiệp nước ta bị đình đốn, ngành sản xuất gốm cũng không thoát khỏi cảnh sa sút điêu tàn đó. Trong tình hình đó, ngành sản xuất gốm hoa lam có 2 xu hướng phát triển khác nhau. Hoặc là sản xuất những đồ gốm có chất lượng thấp, giá thành hạ hợp với túi tiền của đại đa số nhân dân đang sống khổ sở lúc bấy giờ. Những đồ gốm này kiểu dáng đơn giản, nặng nề, hoa văn trang trí kém phong phú, màu lam hoa văn nhợt nhạt. Hoặc là bắt chước phong cách bút pháp của đồ sứ thời Thanh ở Trung Quốc làm ra sản phẩm phục vụ các quan lại triều Nguyễn và những kẻ giàu sang quyền quý. Những đồ gốm này trang trí tủn mủn, rậm rạp, có phần phô trương.

     Cũng cần nói thêm là đây cũng chính là thời kỳ xuất hiện loại đồ sứ “ký kiểu” của của triều đình Lê Trịnh và các vua triều Nguyễn. Do không có được những đồ gốm hoa lam chất lượng cao, triều đình đặt hàng cho các lò sứ Cảnh Đức Trấn Trung Quốc sản xuất đồ sứ để phục vụ trong cung đình và gia đình quan lại trong triều. Sự việc này cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của gốm hoa lam lúc bấy giờ.

     Trong tình hình đó, khu lò gốm Bát Tràng và một vài trung tâm khác đã tìm thấy lối ra là tiếp thu một số kỹ thuật và phong cách mới trong công nghệ sản xuất gốm sứ thời Thanh Trung Quốc để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao.

     Với công nghệ sản xuất mới họ đã có thể làm ra những sản phẩm có kích thước lớn mà các lò gốm trước đây chưa làm được. Đó là những lọ lộc bình cao 80 – 90cm, hay những chiếc thồng miệng rộng 50 – 60cm. Phong cách trang trí cũng có những cải tiến đáng kể. Phổ biến hơn cả là hoa văn đắp nổi kết hợ với vẽ lam hoặc vẽ nhiều màu. Nội dung hoa văn, ngoaì hoa văn phong cảnh như phù dung chim trĩ, chim công, cảnh tùng lộc, rồng chầu mặt trăng, cảnh bát tiên, cảnh đạp tuyết tầm mai, v.v. còn vẽ theo tích truyện cổ tích như Tô Vũ chăn dê, Văn Vương cầu hiền, ngư ông đắc lợi, v.v. Sản phẩm phần lớn phủ men rạn màu trắng ngà, đắp nổi vẽ nhiều màu.

     Thường gặp các loại lọ lộc bình, lọ hình tỳ bà, nậm rượu, chóe, thống, v.v. có kiểu dáng hài hòa hoa văn trang trí rực rỡ. Đó là những chiếc lọ lộc bình cao trên 60cm miệng loe ngang vai xuôi thân thon dài phủ men rạn màu trắng ngà đắp nổi vẽ nhiều màu cảnh phù dung chim công hay những chiếc lọ thành miệng dày tràn ra ngoài bụng tròn hình cầu khắc nổi văn cánh sen phủ men rạn màu trắng ngà đắp nổi vẽ nhiều màu cảnh bát tiên ngồi dưới gốc cây cổ thụ. Hoặc như chiếc lọ hình đàn tỳ bà miệng loe cổ có hai tai phủ men rạn màu trắng, đắp nổi vẽ nhiều màu cảnh ngư ông đắc lợi. Chiếc chóe nắp cao có chóp miệng đứng vai xuôi bụng nở đều, chân hơi choãi phủ men rạn màu trắng đục trang trí đôi rồng lượn vờn mây trắng. Có chóe trang trí đắp nổi vẽ nhiều màu 9 con rồng. Chiếc thống thành miệng dày tràn ra ngoài thân khum đều phủ men trắng đắp nổi vẽ nhiều màu hình hổ vờn hoa cũng rất đặc trưng. Sản phẩm gốm Bát Tràng thế kỷ 18 – 19 với kích thước lớn hoa văn đắp nổi vẽ nhiều màu sinh động cho đến nay vẫn là niểm mơ ước của nhiều nhà sưu tầm cổ vật trong và ngoài nước.

     Nói đến gốm thời Lê – Nguyễn không thể không nói đến gốm sành.Trong cuộc khai quật Hoàng thành Thăng Long phát hiện được khá nhiều đồ sành cho thấy lúc bấy giờ đố sành không chỉ là đồ dùng của tầng lớp bình dân mà còn được sử dụng cả trong chốn cung đình. Từ thời Lê sơ, các trung tâm sản xuất dồ sành phát triển mạnh. Mỗi trung tâm có những sản phẩm mang phong cách riêng.

Ngày nay, để tưởng nhớ và giữ gìn những món đố gốm của các thời xưa, đã có các cuộc tìm kiếm đồ gốm Việt xưa và được trưng bày tại các buổi triển lãm, buổi triển lãm mang tên "Văn hoá đầy màu sắc châu Á" sẽ khai mạc vào ngày 8 tháng 10 tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, trưng bày gần 100 bảo vật cổ xưa của nhiều nước châu Á như Ấn Độ, Hàn Quốc, Indonesia, Myanmar, Campuchia, Lào, Thái Lan và Trung Quốc.

Các vật trưng bày bao gồm vật liệu kiến trúc, đồ dùng gia đình, đồ trang trí, và các vật dụng như đồ đồng, sét, đá, terra cotta, gỗ, bạc, đá quý và ngà voi. Các cuộc triển lãm của nước chủ nhà là các đồ thờ phượng bằng đồ đồng từ thời Lê-Nguyễn vào thế kỷ 15-19. Triển lãm sẽ kéo dài đến tháng 1 năm 2014.


Triển lãm được tổ chức nhân dịp Hội nghị Hiệp hội Bảo tàng Quốc gia Châu Á lần thứ 4 năm 2013 (ANMA 4). Sự kiện này, với chủ đề "Bảo tàng Đóng góp cho Thay đổi Xã hội", sẽ diễn ra từ ngày 7-9 tháng 10 tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam.

Giai đoạn thời Lê - Nguyễn và đồ gốm thời đó ( phần 1)

Vì một số lý do nào đó, dưới triều Nguyễn, thương mại nước ngoài của Việt Nam bị hạn chế trong khi nông nghiệp của nó được nhấn mạnh. Hậu quả là sự suy giảm của gốm Việt Nam, bắt đầu từ thời Lê cuối, tiếp tục. Tuy nhiên, để cung cấp đồ gốm cho thủ đô mới ở Huế, nhà Nguyễn đã mở một số lò nung mới ở đó. Đồng thời, các trung tâm lò khác như Móng Cái (Quảng Ninh), Thổ Hà (Bắc Giang), Phú Lăng (Bắc Ninh), Bát Tràng (Hà Nội), Hương Cảnh (Vĩnh Phú), Quỳ Quyến (Hà Nam) , Hàm Rồng (Thanh Hóa), Cây Mây (Sài Gòn), Lái Thiêu (Bình Dương), Biên Hoà (Đồng Nai) vẫn sản xuất các mặt hàng truyền thống phục vụ tiêu dùng trong nước.

     Có thể nói vớí sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của gốm hoa lam đã dẫn đến sự suy tàn dần của gốm men ngọc và gốm hoa nâu. Tuy vậy vào những năm đầu thế kỷ 15 gốm men ngọc vẫn tiếp tục được sản xuất với số lượng không nhiều mang phong cách truyền thống của dòng gốm dáng vẽ quý phái này. Ngày nay thỉnh thoảng chúng ta vẫn bắt gặp những bát đĩa thành tương đối dày, trang trí khắc chìm văn cánh hoa sen, hoa cúc dây, phủ một lớp men ngọc phớt lục tương đối dày. Men ngọc lúc này vẫn có độ lung linh song không được bóng như gốm men ngọc thờì Lý Trần.

     Đặc trưng nổi bất nhất của gốm thời Lê - Nguyễn là sự ra đời và phát triển của gốm hoa lam. Gốm hoa lam phát triển suốt thời Lê – Nguyễn và cho mãi tời hôm nay. Gốm hoa lam không phải là sáng tạo của người thợ gốm Việt Nam. Thật ra gốm hoa lam ra đời từ rất sớm ở Trung Quốc.

     Tài liệu Trung Quốc cho biết vào thời Nguyên người thợ gốm Trung Quốc đã biết làm ra gốm hoa lam mà họ gọi là gốm thanh hoa. Đến đầu thời Minh với việc Trịnh Hòa 7 lần xuất ngoại đã mang côban từ vùng Trung Á về có hàm lượng măng gan cực thấp, hàm lượng sắt tương đối cao, mà còn có thêm ác xê nic làm cho màu hoa lam trở nên tươi đẹp hơn, rất được người nước ngoài từ Á đến Âu ưa thích, nên sứ hoa lam trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn nhất, rầm rộ nhất suốt thời Minh, Thanh.

     Sự hấp dẫn của sứ hoa lam đến mức khu lò Đức Hóa ở Phúc Kiến vốn sản xuất sứ trắng cũng phải học tập khu lò Cảnh Đức Trấn ở Giang Tây sản xuất sứ hoa lam. Tiêu biểu và nỗi tiếng nhất sứ hoa lam Trung Quốc là sứ hoa lam Cảnh Đức Trấn. Rất có thể buổi đầu sứ hoa lam thồi Lê nước ta cũng chịu ảnh hưởng của sứ hoa lam Cảnh Đức Trấn.

Lọ gốm tỳ bà 

Suốt mấy trăm năm tồn tai và phát triển, gốm hoa lam có lúc thịnh lúc suy, nhưng trước sau vẫn gĩư được những đặc trưng cơ bản của riêng mình. Tiêu biểu cho gốm hoa lam nước ta thời Lê sơ là gốm Chu Đậu. Gốm hoa lam Chu Đậu không những cung cấp cho nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều nước Đông Nam Á, Nhật, Ấn Độ, châu Âu và cũng có mặt tại Trung Cận Đông. Trong bảo tàng Topkapi Saray ở Thổ Nhĩ Kỳ có trưng bày một bình gốm hoa lam Chu Đậu rất đẹp ghi niên đại 1450. Và gần đây, chung ta đã khai quật con tàu đắm gần Cù Lao Chàm chở hơn 240.000 đồ gốm hoa lam Việt Nam, trong đó chủ yếu là gốm hoa lam Chu Đậu.

     Khác với gốm men ngọc và gốm hoa lam, gốm hoa lam là dòng gốm hoa văn vẽ một màu dưới men, nung một lần nên màu không bị bong và biến màu. Gốm hoa lam là dùng chất lam côban vẽ các đồ án hoa văn lên mặt phôi gốm, sau đó phủ men thấu quang lên và nung với nhiệt độ cao sẽ cho sản phẩm gốm hoa lam dưới men.

Về chất liệu, gốm hoa lam đã vượt qua các loại gốm sành xốp hoặc gốm đàn phổ biến trong các giai đoạn trước đó. Gốm hoa lam được làm từ đất sét trắng, thận chí còn pha thêm cả caolin là loaị đất chuyên để sản xuất đồ sứ. Nguyên liệu lại được sàng lọc cẩn thận, loại bỏ tạp chất, xương đất rất mịn. Sản phẩm cũng được nung với nhiệt độ tương đối cao nên xương đất chớm cháy, kết cấu hạt chặt chẽ, mịn màng, xương có độ cứng cao tạo điều kiện làm ra những sản phẩm mỏng đẹp.

Vào thời điểm đó, Bát Tràng vẫn là trung tâm lò gạch năng động nhất ở thời Nguyễn, sản xuất gốm sứ đa dạng nhất, kiểu dáng và trang trí. Ngày nay, nhiều mẫu Bát Tràng có niên đại từ triều đại Gia Long (1802-1819) được bảo tồn tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
Trong số này, thú vị nhất là hai chậu vôi trong men ngà ngà. Người đầu tiên có một tay cầm nhẹ nhõm với một con dơi cầm một cuộn giấy trong miệng và bốn cái đầu rắn. Thứ hai có một tay cầm được làm mẫu với một hoa areca cách điệu và bốn con rắn giống như động vật. Cần lưu ý rằng một con dơi cầm một cuộn giấy trong miệng của nó là một biểu tượng của Trung Quốc về hạnh phúc liên quan đến thành công học thuật. Trong khi đó, con rắn là biểu tượng của người đàn ông Việt Nam có liên quan đến "Ông Lime Pot" theo tiếng Việt. Hoa areca được cách điệu hoá trên tay cầm của vôi vôi cũng tượng trưng cho mối liên hệ giữa cau mày, trầu và vôi theo phong tục nhai trầu; Các quil betel cũng là một biểu tượng của hạnh phúc.

Còn tìm hiểu về các sản phẩm tại làng Phước Tích được trưng bày tại Festival Huế

Nhằm mang những nét đặc sắc, tinh túy nhất để quảng bá, phục vụ cho Festival nghề truyền thống Huế 2017, những ngày này, làng gốm Phước Tích, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền đang tích cực chuẩn bị các sản phẩm truyền thống để tham gia trưng bày.

Phước Tích, thuộc xã Phong Hòa thuộc huyện Phong Ðiền, được thành lập dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497) với tên gọi ban đầu là Đông Quyết và sau đó đổi tên thành Phước Tích trong thời Nguyễn (1802-1945).

Theo ông Nguyễn Đại Vui, Chủ tịch UBND huyện Phong Điền, tất cả các gia đình trong làng đã kiếm sống bằng nghề gốm sứ trong suốt 500 năm qua. Đồ gốm Phước Tích đã từng nổi tiếng và đã từng được các nhà vua sử dụng để sử dụng.

Với sự trợ giúp của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) phối hợp với Đại học Phụ nữ Showa của Nhật Bản, Phước Tích có thể khôi phục lại nghề thủ công gốm truyền thống, không chỉ đem lại lợi ích thương mại mà còn thúc đẩy du lịch.
Cũng theo ông Lương Thanh Hiền, cơ sở của ông sẽ mang khoảng 400 – 500 sản phẩm gốm đủ các mặt hàng, chủng loại như: lu, ảng, hủ, om, siêu, nồi, ấm, bình vôi, bình hoa và các mặt hàng mới như: bình rót rượu, trống, đĩa cánh sen… nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách, người khi đến tham quan, mua sắm các sản phẩm gốm Phước Tích tại Festival.

Đồ gốm Phước Tích được nhiều người biết đến bởi kỹ thuật độc đáo 

Qua tìm hiểu, để tạo ra 1 sản phẩm gốm hoàn chỉnh không dễ dàng chút nào. Nguyên liệu làm gốm là đất sét thường được người dân Phước Tích lấy ở vùng Diên Khánh (nay là xã Hải Dương, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị). Theo những người thợ, thì sản phẩm gốm phải trải qua các công đoạn như: lấy nguyên liệu, làm đất, tạo hình và trang trí họa tiết, cuối cùng là nung sản phẩm gốm ở trong lò. Cơ sở gốm Phước Tích hiện đang sử dụng lò đốt, nung bằng gas nên tiến độ được đẩy nhanh. Một đợt sẽ nung được khoảng trên 500 sản phẩm. Nếu lò đốt bằng củi thì phải mất đến 3 ngày 3 đêm mới nung thành công một “mẻ”. Công việc đòi hỏi những người thợ lành nghề phải biết giữ nhiệt độ đều đặn ở khoảng 1.200 độ C trong suốt khoảng 24 giờ. Bởi nếu nung thiếu, hoặc quá 1.200 độ C thì sản phẩm đó xem như “bỏ đi”. Bên cạnh đó, họ còn phải nắm vững nguyên tắc xếp sản phẩm trong lò nung sao cho tiết kiệm được tối đa không gian và hạn chế đến mức thấp nhất lượng sản phẩm bị hỏng, nứt vỡ trong quá trình nung.

Được biết, trải qua một thời gian khó khăn, gốm Phước Tích nay đã thực sự “hồi sinh” trở lại. Các sản phẩm gốm nơi đây còn là truyền thống, là sản phẩm du lịch độc đáo trong mắt bạn bè gần xa và góp phần vào việc bảo tồn nghề truyền thống Huế. Trong các kỳ Festival trước đây, làng cổ Phước Tích với các sản phẩm gốm đã thu hút sự quan tâm của đông đảo du khách trong và ngoài nước với hoạt động triển lãm gốm truyền thống và tour du lịch “Hương xưa làng cổ”.

Nắm bắt xu hướng hiện đại ngày nay, cùng với sự trợ giúp từ các ban ngành, Đại học Nữ Chiêu Hòa và tổ chức JICA  (Nhật Bản), những người thợ gốm làng Phước Tích đã biết sáng tạo, thiết kế và thử nghiệm các mẫu mã sản phẩm gốm mới. Đặc biệt, họ đã “dung hòa” được nét truyền thống và hiện đại. Đồng thời, chuyển đổi công năng sử dụng từ dòng sản phẩm gốm dân dụng sang dòng gốm trang trí ứng dụng, nội thất có giá trị thẩm mỹ, kinh tế và nghệ thuật cao. Hiện nay, cơ sở sản xuất gốm cổ Phước Tích không ngừng đa dạng hoá mẫu mã và chất lượng sản phẩm để có “chỗ đứng” trên thị trường.

Từ hàng trăm năm nay, đôi tay khéo léo, tài hoa của người thợ gốm làng Phước Tích đã cho ra đời nhiều sản phẩm có mặt trong nhiều gia đình người dân ở Huế cũng như toàn quốc như: bình hoa, trách, niêu, lu, ảng, hủ, om, siêu, nồi, ấm… Sở dĩ, gốm Phước Tích được nhiều gia đình ưa chuộng bởi màu sắc đẹp mắt, họa tiết trau chuốt. Thêm nữa, đồ gốm luôn mang nét đặc trưng riêng và có phần tao nhã khi chưng trong nhà. Trung bình, mỗi sản phẩm gốm có giá dao động từ 50.000 đồng đến 1.000.000 đồng tùy vào sự gia công, trang trí trên mỗi sản phẩm gốm. Ưu điểm lớn nhất của gốm Phước Tích để tạo nên sự khác biệt so với các làng gốm khác, đó là gốm có độ cứng, tính chịu nhiệt cao và không cần tráng men hay sơn màu thì gốm vẫn có một màu sắc đẹp rất đặc trưng. Những nghệ nhân làng Phước Tích đã tiếp bước cha ông, tạo ra các mặt hàng gốm ngày càng tinh xảo, đáp ứng số lượng cho thị trường tiêu thụ.

Ngôi làng cổ Phước Tích thật sự đáng yêu và rất yên bình. Một chuyến đi xe đạp trên con đường gạch đỏ dọc theo dòng sông sẽ cho bạn thấy nhiều vẻ đẹp tự nhiên của cảnh quan. Bạn cũng sẽ thấy ngôi nhà của cộng đồng được sử dụng để thờ phượng, nhìn thấy các dấu tích của di tích văn hóa Chăm và thủ công làm bột gạo được sử dụng cho các món ăn địa phương. Bến sông rất quyến rũ và dẫn đến làng láng giềng được biết đến với nghề chạm trổ bằng gỗ và làm khung nhà của Nhà Rọng. Đây là 2 ngày thư giãn trong khi bạn chỉ đơn giản là thưởng thức những thú vui văn hóa và kiến trúc mà ngôi làng kỳ lạ này cung cấp.

Chính phủ Việt Nam thừa nhận Làng Phước Tích như một di tích kiến trúc quốc gia. Đây được coi là một địa điểm quan trọng để bảo tồn các giá trị truyền thống cũng như cơ hội cho du khách khám phá bản chất của Việt Nam.

Phước Tích đã được biết đến với nghề gốm không tráng men từ những ngày vàng son. Ngày nay, sản xuất chỉ dựa trên đơn đặt hàng. Chính quyền địa phương đang làm việc với các nghệ nhân địa phương để hỗ trợ họ trong việc tạo ra các sản phẩm gốm có giá trị thẩm mỹ cao.


Thương thay cho những cụ già một mình sống và giữ gìn ngôi nhà ở làng Phước Tích

Khách du lịch được giới thiệu đến một cách độc đáo để sản xuất các sản phẩm gốm và có thể cố gắng làm việc như một thợ thủ công bằng gốm, chỉ là một trong những trải nghiệm không thể nào quên được của Phước Tích. Người dân địa phương quý trọng đồ thủ công bằng gốm và cống hiến một khu vực riêng biệt, gọi là Treng Islet, để bảo quản những mảnh gốm cổ. Lương Thị Bé là một thợ thủ công gốm ở Phước Tích: "Trước đây, chúng tôi đã làm các đồ gốm khác nhau. Họ đã rất tốn kém và rất mong-sau. Vào thời điểm đó, làng chúng tôi giàu có với nhiều ngôi nhà. Tất cả trẻ em đi học. Người dân Phước Tích bắt đầu sản xuất các sản phẩm gốm vào năm 1940. Lúc đó tôi còn nhỏ. Năm 1975, tôi bắt đầu sản xuất các sản phẩm gốm. Nhà Ruộng ở Phước Tích được xây dựng với doanh thu từ việc bán đồ gốm ".

Ngôi làng cổ Phước Tích bao trùm vẻ đầy cổ kính

Thế nhưng, nhiều người khi đến thăm làng cổ Phước Tích không khỏi ngạc nhiên khi vào những ngôi nhà rường chỉ gặp những người già trông coi, gìn giữ nhà cổ chứ không còn thấy cảnh 2-3 thế hệ cùng chung sống trong những căn nhà cổ đó. Dạo quanh làng cũng chỉ thấy hầu hết là người già và trẻ nhỏ, còn những người trong độ tuổi lao động đều đi làm ăn xa, ít khi trở về làng. Do không có người trông coi hay chỉ có người già ở đó nên nhiều ngôi nhà rường đã bắt đầu xuống cấp nghiêm trọng.Chỉ có dịp Tết là con cháu trong làng về sum họp cùng gia đình nhưng cũng không còn nhiều như xưa vì đời sống mưu sinh khó khăn.

Hơn 10 năm nay, mệ Lương Thị Hén (1914) chỉ có một mình trông coi ngôi nhà rường cổ mà cha ông đã để lại khi qua đời. bà Hén cho biết, “con cái trong gia đình đã đi làm ăn xa hết rồi, thỉnh thoảng có đứa cháu mua đồ ăn rồi đưa tới. Ngồi nhà rường 100 năm tuổi đang xuống cấp nghiêm trọng nhưng giờ tôi đã già lại một thân, một mình nên cũng không làm gì để sửa sang cho ngôi nhà được”.

Bà Trương Thị Thú (84 tuổi) một mình ở trong căn nhà rường 3 gian 2 chái, nhưng hàng ngày mệ vẫn dọn dẹp, lau chùi các đồ đạc trong căn nhà được sạch sẽ để đón những đoàn khách du lịch về tham quan, tìm hiểu. “Con cháu trong nhà đều lên thành phố và đi làm ăn xa rất ít khi về nhà nên chỉ còn mình tôi ở lại gìn giữ và bảo quản căn nhà. Nhiều lần tôi cũng nói con cháu về quê sinh sống để thay tôi gìn giữ căn nhà do tổ tiên để lại nhưng cũng không đứa nào về vì về quê công việc không có thì biết lấy gì mà ăn” – mệ Thú tâm sự.

Khách đến với Phước Tích cũng thích các món ăn đặc sản địa phương, đặc biệt là bánh gạo của phụ nữ địa phương. Bà Nguyễn Thị Thuý, sống trong làng, nói phụ nữ địa phương thành lập một câu lạc bộ nấu ăn để giới thiệu thực phẩm địa phương cho du khách: "Ở đây chúng tôi phục vụ dưa chua, thịt heo với nước sốt tôm, và nhiều loại bánh gạo. Câu lạc bộ của chúng tôi có 16 thành viên. Bằng cách gia nhập câu lạc bộ, phụ nữ địa phương có thể kiếm thêm thu nhập ".

Bà Trương Thị Phú bao năm qua đã giữ gìn bảo vệ ngôi nhà nhỏ này 

Khách du lịch đến với Phước Tích thường xuyên sắp xếp để ở trong nhà ở địa phương sống với người dân địa phương và học hỏi gì đó về cuộc sống của họ.

Không những người dân mà cả khách du lịch đang rất lo lắng về tương lai của những ngôi nhà rường cổ ở Phước Tích đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Một vài năm nữa nếu không được tu sửa, quan tậm kịp thời, số phận những ngôi nhà này sẽ ra sao? Và liệu sẽ có bao nhiêu ngôi nhà rường phải đóng cửa vì không có người trông coi, gìn giữ?

Những khó khăn chồng chất làng gốm Phước Tích phải trải qua ( phần 2 )

Các sản phẩm gốm Phước Tích bao gồm các bình nhỏ, chậu, chậu vôi, bình hoa, đĩa, nồi ... có màu sậm màu đỏ sét nâu, chủ yếu do các gia đình người Huế sử dụng. Một số đồ gốm của làng Phước Tích đã được sử dụng bởi các vị vua trong triều Nguyễn, chẳng hạn như chậu nấu cơm ...

Từ năm 1989 đến năm 1995, nghề thủ công mỹ nghệ của Phước Tích dường như đã bị đình trệ. Tuy nhiên, sau lễ hội Huế 2006 và 2008, nghề này dần dần được phục hồi. Năm 2006-2007, chính quyền xã Phong Hòa và huyện Phong Điền đã đầu tư khôi phục nghề. Văn phòng Pháp ngữ tại Walomine, Bỉ đang phối hợp với Viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam hỗ trợ xây dựng lò nung sản xuất nhiệt lên đến 1.400-1.5000C để bảo vệ và phát triển nghề thủ công.

Gốm Phước Tích cổ hiện nay hầu như chỉ còn được " lưu giữa" trong ký ức của những người già 

Năm 2012, tổ chức Jaica (Nhật Bản) đã đầu tư kinh phí cho ông đóng tủ kính gương dày, hệ thống đèn led, đèn chiếu sáng hiện đại, do đó mà sản phẩm được trưng bày, sắp xếp khoa học, hợp lí hơn.
Trước nguy cơ nghề gốm sẽ bị mai một, ông Diễn đã không ngừng suy nghĩ, đặt câu hỏi làm thế nào để bảo tồn, lưu giữ, phát huy sản phẩm gốm cho con cháu muôn đời sau.

Qua những trăn trở đó của ông Diễn, PV đã có buổi trao đổi với ông Trần Văn Nguyên, Phó chủ tịch UBND xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ông Nguyên cho biết, hiện nay gốm xưa đã bị mai một, chỉ còn lại một số sản phẩm nhưng chất lượng gốm cũng giảm đi rất nhiều. Trong làng hiện tại có anh Lương Xuân Hiền còn làm gốm nhưng cũng chỉ sản xuất được những sản phẩm nhỏ, còn để sản xuất được những sản phẩm như thời thịnh vượng thì không có. UBND xã đã cử người đi học tại làng gốm Bát Tràng, nhưng chỉ sản xuất gốm vào dịp diễn ra Festival.

Về phương hướng bảo tồn nghề gốm, ông cho biết, cuối năm 2015 xã đã phối hợp với huyện mở một lớp đào tạo về nghề làm gốm. Trong thời gian vừa qua, xã cũng đã phối hợp với huyện cho vay vốn để phát triển nghề gốm nhưng đầu ra vẫn chưa được bảo đảm, thêm vào đó lại thiếu nguồn nhân lực để phát triển nghề nên gốm Phước Tích vẫn chưa được khôi phục.

Gốm Phước Tích nơi đây đã có từ lâu đời 

Để làng gốm Phước Tích có đủ khả năng và sức mạnh to lớn vượt qua những khó khăn thử thách, những “ bão tố” để giữ vững ngành nghề truyền thống của làng, những người dân làng nơi đây luôn chung tay với nhau, đồng hành trên con đường phát triển của làng gốm Phước Tích, cho dù có bao nhiêu khó khăn chông gai phía trước vẫn luôn vững mạnh.

Thứ Hai, 12 tháng 6, 2017

Khó khăn và niềm đam mê của nghệ thuật tạo hình hoa văn

Đôi khi những nét hoa văn trang trí có những ý nghĩa riêng của nó, đôi khi nó chỉ là trang trí. Nhiều hoa văn được sử dụng ngày nay là sự thích ứng trang trí của các hình dạng cụ thể mà từng có ý nghĩa đối với cả nhà sản xuất và người sử dụng. Như Susan Meller và Joost Elffers đã viết về Thiết kế Dệt may: Hai trăm năm Mẫu Châu Âu và Hoa Kỳ, các mẫu có ý nghĩa cụ thể khi khởi sự sau đó đi qua các nền văn hoá và phương pháp họa khác nhau. Khi không sử dụng, họ trở lại kho lưu trữ, chỉ để được luân hồi ở một nơi mới hoặc trong một phong cách mới, như cô giải thích "... như thể ý nghĩ của Carl [Jung của tập thể vô thức đã được thực hiện theo nghĩa đen trong này Lưu trữ hình dạng. "

Phỏng vấn từ một nghệ nhân chuyên trang trí hoa văn trên gốm “ Khi sử dụng mẫu như trang trí trong tác phẩm của tôi, tôi chọn loại rất chung chung, chẳng hạn như lặp lại các đường nét tạo sự liên tiếp, hoặc chỉ sử dụng một phần mẫu truyền thống. Tôi cũng sẽ chọn sử dụng một mẫu hoa cúc, các loài hoa khác nhau, hoặc lá để trơn trượt hoặc chạm khắc bằng dao X-Acto để cho phép dòng chảy.

Mỗi nét hoa văn trên gốm là mỗi cái nghệ thuật người nghệ nhân đã đặt vào

Thiện, cô gái trẻ hiện đang quản lý sản xuất, đưa chúng tôi đi một vòng quanh xưởng gốm tại ngoại ô Sài Gòn, cho biết vẽ gốm là một công việc vừa dễ nhưng cũng vô cùng khó. Những người muốn theo đuổi nghề này sẽ được rèn luyện trong ba tháng và sau đó bắt đầu thực hành trên xương gốm thật. Tuy nhiên, phải mất hàng năm trời họ mới được vẽ các họa tiết phức tạp. Và để có thể vẽ được những mẫu họa tiết mới, phức tạp, họ có thể phải trải qua cả thập kỷ đi theo nghề.

Chị Đoàn Minh Phượng, người sáng lập thương hiệu từng viết rằng: “Ai xem tranh cũng biết rằng cái hồn của bức vẽ nằm ở nét, và hồn của tranh nằm ở sự tương tác của các lớp màu với nhau và với nền của tranh”.

Gốm có thể coi là một loại “giấy” đặc biệt, xương gốm cứng, nhưng lại có độ thấm nhất định. Cái tinh tế của việc vẽ gốm chính là việc biết độ thấm của xương gốm, của mực vẽ đến đâu. Việc chọn loại mực vẽ nào cũng gây ảnh hưởng đến việc cách người ta vẽ lên gốm. Độ chìm nổi tinh tế của màu với men, sự tương tác của chúng là cái hồn của gốm. Thế nên, Thiện cho biết không phải cứ học mỹ thuật, biết vẽ trên giấy là có thể vẽ gốm, bản thân cô cũng bỏ cả nghề kiến trúc mình từng theo đuổi mà tới đây, ngồi học vẽ như một người mới bắt đầu, để rồi tình yêu với gốm giữ cô ở lại với xưởng của Authentique.
Là sản phẩm thủ công, không có sản phẩm gốm nào giống hệt nhau. Thiện cho biết đó cũng chính là điều mà cô thấy thú vị nhất ở vẽ gốm. Là người kiểm soát chất lượng sản phẩm, cô dần dần quan sát được cá tính riêng của mỗi người thợ vẽ: “Cũng là bông hoa ấy, nhưng có người vẽ nét thanh hơn, có người vẽ nét mạnh hơn, chỉ chút xíu thôi, nhưng cũng tạo nên tính cách của từng món đồ”.

Và tất nhiên, dù là một kiểu họa tiết, nhưng màu sắc của từng đợt sản phẩm cũng có cái riêng. Ngoài nồng độ của màu, thì cả việc chọn men phủ lên và độ nóng của lò cũng tạo ra sắc thái riêng của các sản phẩm. Tất nhiên, chính sự biến thiên liên tục, tạo ra được vẻ đẹp đa dạng, cái hồn riêng của mỗi món gốm ấy lại đi kèm với những rủi ro, không phải thử nghiệm nào cũng thành công.
Trở vào phòng khách, cô đặt lên trên bàn một chiếc bình họa tiết bách hoa, lấy cảm hứng từ một chiếc áo cưới kết đầy hoa. Đây là một trong những mẫu họa tiết đang được nhiều khách hàng yêu thích.

 Những nét vẽ hoa văn đòi hỏi sự tinh tế tuyệt đối 

Đoàn Thành Nghĩa, người đã đi học nghề gốm cả ở Bát Tràng, Lái Thiêu, Bình Dương nói rằng người nghệ sĩ mỗi năm có thể tạo ra hai mẫu vẽ gốm đã là rất thành công rồi. Mẫu vẽ phải có cái duyên khi áp lên gốm, và để biết điều đó, chỉ có một cách là thử. Người sáng tác mẫu hoặc tự vẽ mẫu, hoặc phải trao đổi với thợ vẽ chính để vẽ thử lên xương gốm, sau đó còn phải trải qua nhiều lần điều chỉnh để tìm được một bố cục, một họa tiết ưng ý, hài hòa. Khi mẫu vẽ đã hoàn thành, chỉ có người thợ chính mới được thực hiện nó trên gốm. Khi đã thành thục, họ sẽ dạy lại cho những người thợ phụ.


Các nghệ nhân làm gốm thường sử dụng các mẫu hoa văn truyền thống cho việc tạo hình hoa văn trên bề mặt gốm,nó thường là những mẫu hoa văn đơn giản hay đôi khi những mẫu hoa văn ấy thể hiện những nét bình dị cho cuộc sống hằng ngày của con người. Sử dụng mẫu hoa văn được tạo ra bởi nền văn hoá khác nên được thực hiện có ý thức và cẩn thận để thực hiện các lựa chọn hiệu quả để nó thoải mái như là một phần của công việc. Nếu ý định không phải là để gọi một nền văn hoá hoặc kỷ nguyên cụ thể, tốt nhất nên sử dụng một phương pháp trang trí làm thay đổi hình dáng của khuôn mẫu đủ để nó không nhận ra ngay. Để cố ý gọi quá khứ sử dụng của mẫu, sử dụng một kỹ thuật như màn hình in hoặc decals in để sao chép nó một cách trung thực.

Chủ Nhật, 11 tháng 6, 2017

Sự phổ biến của việc sử dụng màu xanh lam cho làm gốm

Một truyền thống sâu sắc tồn tại cho gốm men xanh hấp dẫn. Các cuộc khai quật khảo cổ ở cao nguyên của Iran và Trung Á đã khám phá ra đồ gốm màu xanh ngọc lam. Những sản phẩm này bao gồm "bình pilgrim" và bát lớn và các bình chứa ngũ cốc .. Khi Persia là trung tâm thương mại, kỹ thuật glazing được cho là đã được giới thiệu từ Ai Cập hoặc Mesopotamia. Các thợ gốm Ba Tư rất sáng tạo và đi tiên phong trong nhiều kỹ thuật mới.
Tranh trang trí dưới lớp men rõ ràng đã được các thợ sáo Hồi giáo đầu tiên thực hiện ở Syria, có thể là vào cuối năm 9 hoặc thế kỷ thứ 10. Màu sắc được sử dụng trong sơn lớp nền để tráng men được giới hạn ở ba màu: màu xanh cobalt, màu ngọc lam và màu đen. Các trang trí của hầu hết các lớp nền để tráng men sơn sử dụng thiết kế hoa văn và mô hình bản địa. Cobalt xanh, hoặc đôi khi thậm chí men ngọc lam cũng được sử dụng cho trang trí lấp lánh trên các sản phẩm được sản xuất tại Kasham, một trung tâm gốm ở Ba Tư Ngoài các con tàu, thợ gốm Kashan cũng sản xuất một số lượng lớn gạch ngói, một số trong đó được làm bằng nhiều chất bóng Gạch.

Ảnh 1. Màu sắc xanh của gốm tạo sự hài hòa niềm cảm hứng bất tận cho gia chủ 

Gạch lát bằng kính màu xanh lam có niên đại từ 900AD cũng đã được phát hiện ở Multan ở Pakistan và đã được sử dụng để xây dựng nhà thờ Hồi giáo Các gạch Kashi chịu ảnh hưởng bởi các thiết kế của Ba Tư và các kỹ thuật sản xuất và được cho là đã được giới thiệu từ Kashgar, Trung Quốc dưới ảnh hưởng của Mông Cổ Trung Quốc. Người ta tin rằng họ tinh chế phương pháp kính màu xanh bằng cách kết hợp các kỹ thuật tráng men của Trung Quốc với các thủ tục mâu thuẫn của Ba Tư.
Tuy nhiên, phải đến thế kỷ 14, gốm sứ xanh trắng mới được hoàn thiện. Đó là khi giao thương đã phát triển, cho phép các “trung tâm gốm” của thế giới có thể gặp gỡ và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Màu xanh cobalt vốn là thế mạnh của gốm vùng Trung Đông và tìm được cách kết hợp với xương gốm trắng cùng lớp men trong suốt mịn màng của người Trung Hoa. Gốm xanh trắng vươn đến đỉnh cao với các sản phẩm gạch lát sàn và tường của khu vực Trung Đông, được kết hợp với công nghệ nung sứ (sản phẩm gốm được nung với nhiệt độ cực cao, từ 1.200 đến 1.400 độ C) tại vùng Đông Á.
Những sản phẩm gốm sứ men xanh trắng nổi tiếng nhất hẳn phải là gốm sứ thời Nguyên và Minh tại Trung Hoa. Đấng vương giả thời Minh rất chuộng màu men này, chính vì thế, hai họa tiết quen thuộc nhất của gốm xanh trắng thời đó là rồng và phượng. Một số hình vẽ khác như hoa lá, động vật và nội sảnh cũng được các nghệ nhân vẽ gốm ưa chuộng. Gốm sứ xanh trắng thời Nguyên – Minh cho đến giờ vẫn là niềm tự hào của người Trung Quốc về sự đa dạng bất tận sắc lam của các sản phẩm.

Đây cũng là loại men sớm nhất được sử dụng tại Bát Tràng, Việt Nam. Ngay từ thế kỷ 14, các nghệ nhân Bát Tràng đã sử dụng ô-xít cobalt làm màu vẽ gốm, và biến nó thành một trong những sắc màu đặc trưng của xứ gốm này, bên cạnh màu men nâu (không cần phải phủ men thủy tinh bên ngoài). Gốm xanh Bát Tràng cũng có nhiều mức độ ngả lam, từ xanh chì đến xanh rất sẫm. Tuy nhiên, nhìn chung, màu xanh lam của gốm Bát Tràng có sắc trầm, nhã nhặn, tương đối khác biệt với màu xanh có phần tươi tắn của gốm sứ Trung Hoa cùng thời.
Điều đặc biệt là dù đã có một lịch sử phát triển lâu dài như vậy, nhưng sắc men xanh trắng chưa bao giờ lỗi mốt. Cho đến nay, hầu hết các công ty sản xuất gốm đều lựa chọn màu men này để trang trí cho các sản phẩm gốm sứ của mình. Có lẽ, đó là bởi vẻ đẹp của gốm sứ xanh trắng luôn tìm được cách trở nên hài hòa với mọi hoàn cảnh.

Dù ở sắc độ lam nào, màu xanh trắng của gốm sứ cũng luôn gợi nhắc cho chúng ta về màu trời xanh, màu biển, màu của những rặng núi xa xa trong ánh chiều. Sắc xanh được lấy cảm hứng từ những hình ảnh tự nhiên vĩ đại nhất này rất giản dị, nhưng lại không quá mộc mạc như những màu men xuất hiện từ sớm khác như đỏ hay nâu.

Điểm thú vị của gốm sứ men xanh là nhờ sự trung tính trong màu sắc và đa dạng sắc độ của mình, chúng có thể kết hợp với nhiều phong cách nội thất, dù là cổ điển hay hiện đại. Màu xanh lam của gốm sứ cũng trở thành nguồn cảm hứng bất tận với nhiều nghệ sĩ. Sắc xanh trắng này vượt qua khỏi địa hạt của gốm, trở thành màu sắc được ứng dụng trên nhiều sản phẩm nội thất khác như giấy dán tường, rèm cửa, gối, khăn trải, các tấm lót hay thảm trải sàn.

Ảnh 2. Dĩa gốm màu men xanh hài hòa 

Các phương pháp làm  gốm men xanh sau đó đã đi đến Kashmir- nơi áp dụng nghiêm ngặt phương pháp đó duy nhất chỉ cho các ngôi đền, ngôi mộ và cung điện và nó đã trở nên sử dụng rộng rãi cho sản xuất gốm. Cuối cùng kỹ thuật gốm màu xanh được tìm thấy có đường xuống Delhi và Rajastan dưới thời trị vì của Mogul Các nhà cai trị vào thế kỷ 14. Rajasthan đã trở thành một trung tâm gốm màu xanh sau khi các vua của Jaipur bảo trợ nghệ thuật. Kỹ thuật này đã phát triển để sử dụng thạch anh đất, Multani mitti (fullerơ đất), gum borax, oxit coban, natri sulphat và các loại muối khác .. Chú thích rằng đồ gốm màu xanh đã được các vị vua Mughal sử dụng để thử nghiệm thực phẩm của họ, Họ có thể biết được bằng sự thay đổi men rượu của đồ gốm nếu thực phẩm bị giả mạo hoặc bị ngộ độc.





Sản Phẩm Gốm Sứ Kim Lan

Làng gốm sứ Kim Lan nằm ở huyện Gia Lâm, phía đông nam Hà Nội, giáp với Bát Tràng, làng nghề sản xuất gốm nổi tiếng ở miền Bắc, và quận Hoàng Mai ở phía tây. Nó có một lịch sử lâu dài và là một trong những trung tâm sản xuất gốm nổi tiếng trong nước.
Đồ gốm của người dân Kim Lan được biết đến với tính thiết thực của họ hơn là thiết kế trang trí công phu. Các sản phẩm đa dạng về đa dạng, từ tăm và nến, đến các chậu hoa, thùng nhỏ và bình. Ngoài ra, người dân còn tập trung sản xuất gốm sứ phục vụ xây dựng, như gạch trang trí, lan can ...

Năm 2001, nhà khảo cổ Nhật Bản Nishimura Masanari và sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội đã tiến hành khai quật tại khu di tích Kim Lân và tìm thấy rất nhiều đồ gốm cao cấp, bao gồm gốm Long Tuyền và gốm Việt Châu ở ba địa điểm. Đặc biệt quan tâm là một ly với hai cái tai được sử dụng để uống rượu từ thế kỷ 11; Một miếng tấm kính màu xanh đậm với đường kính 45cm trang trí bằng phượng, lần đầu tiên được tìm thấy ở Việt Nam; Và một vết tích của lò đường có nền kiến trúc 20 x 10 cm.

Ảnh 1. Một góc nơi làm gốm trong làng 

     Nghề làm gốm ở Kim Lan xuất hiện từ bao giờ vẫn là câu hỏi chưa có lời giải đáp xác đáng. Tuy nhiên, theo những tài liệu mới thu thập được của các nhà nghiên cứu khảo cổ cũng như của các cụ hưu trí ở làng Kim Lan khi đi tìm về lịch sử của làng thì vào khoảng thế kỷ thứ IX, tướng quân Cao Biền nhà Đường sang đánh quân Nam Chiếu, khi đi qua xã Kim Lan thu lúa nuôi quân thấy nơi đây phong cảnh hữu tình bèn sai bề tôi là Trạc Linh và Chử Việt lập doanh trại để ở, cùng dân canh tác, trồng dâu nuôi tằm và mở xưởng làm gốm với mục đích ban đầu là phục vụ nhu cầu sinh hoạt thường ngày.

      Những chứng tích phát lộ trên bờ sông bị sạt lở vào năm 2000 càng có cơ sở để các nhà nghiên cứu khẳng định được rằng nghề làm gốm ở Kim Lan có nguồn gốc từ rất lâu đời và đã có thời kỳ phát triển cực thịnh. Trong số những di vật ấy phải kể đến những đồ gốm sứ có niên đại từ đời Đường (thế kỷ VII-thế kỷ X) đến thời Lê (thế kỷ XVII-XVIII). Phổ biến nhất là gốm đời Trần và Lê với các chủng loại như men nâu, men trắng ngà, men xanh ngọc và gốm hoa lam là một loại gốm cao cấp... Phong cách thể hiện hoa văn trên những di vật gốm này giống với một số mảnh gốm đã được tìm thấy ở Philippin và Indonesia cho thấy nhiều khả năng, sản phẩm gốm Kim Lan đã được xuất khẩu ra nước ngoài.

     Bên cạnh đó, các nhà khảo cổ còn tìm được nhiều hiện vật kim loại như chuông thờ, lư hương, tiền cổ, các hiện vật gốm, đất nung như gạch, ngói, đầu rồng, điếu bát, đĩa, bát, hũ, vò, chậu, nồi, ấm... và đặc biệt có mẫu gạch Giang Tây Quân tại bãi Hàm Rồng xã Kim Lan, trùng hợp với mẫu gạch tướng Cao Biền dùng xây thành Đại La….. Với những báu vật đã tìm được, chính quyền xã Kim Lan đã cho xây dựng ngay một Nhà trưng bày đặt cạnh trụ sở UBND xã nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu và nghiên cứu của các nhà khảo cổ cũng như du khách đến với làng nghề.

     Đã có thời gian, làng gốm Kim Lan gần như bị thất truyền, người dân di tản khắp nơi kiếm sống. Vài chục năm trước, những nghệ nhân Kim Lan từng làm việc tại các lò gốm Bát Tràng quyết định quay lại làm nghề tại chính mảnh đất quê hương mình mà mãi sau này họ mới biết đó là nơi khởi thủy của nghề gốm. Cho tới thời điểm hiện tại, hơn hai trăm hộ dân tại xã Kim Lan đã và đang thành công trong việc khôi phục và phát triển làng nghề cổ truyền của mình.

     Sản phẩm gốm Kim Lan không quá cầu kỳ về chi tiết nhưng lại rất tiện dụng và thoải mái cho người sử dụng. Các sản phẩm của làng nghề rất phong phú, đa dạng, từ những sản phẩm nhỏ tinh xảo như chiếc ống đựng tăm, đế nến, bát hương cho tới những sản phẩm lớn như chậu cảnh … Một điều đặc biệt nữa là gốm xây dựng Kim Lan đã trở thành một thương hiệu có tiếng của cả nước như gạch, ngói trang trí, con tiện lan can. Nếu đến Kim Lan bạn sẽ dễ dàng nhận ra một màu đỏ tươi trên hầu hết các mái nhà cao tầng được lợp bằng ngói trang trí – sản phẩm của làng nghề, trải dài từ đầu làng tới cuối xã.

Anh Nguyễn Văn Hà, chủ một lò gốm ở thôn Thống Nhất vốn là công nhân của Xí nghiệp Gốm Bát Tràng cho biết, nguyên liệu sản xuất gốm của làng nghề Kim Lan được khai thác từ các mỏ cao lanh cách xa khoảng 80km ở Kinh Môn, Hải Dương. Đây là mỏ nguyên liệu có trữ lượng dồi dào và được dân làng nghề ưa chuộng hơn cả loại đất gốm ở Vĩnh Phúc bởi độ chịu nhiệt cao.

Ảnh 2. làng gốm sứ Kim Lan cả ngàn năm tuổi 

     Từ những nguyên liệu thô này, người thợ phải thực hiện rất nhiều công đoạn chế biến như đánh tan, lọc đất (làm lắng), ép luyện, định hình (nặn, vuốt…). Một trong những kỹ thuật cổ truyền vẫn được người thợ làng gốm Kim Lan áp dụng là sử dụng đèn soi để sấy khô sản phẩm khi thời tiết có độ ẩm cao. Sau khi đạt được độ cứng theo yêu cầu, những người thợ tài hoa tiếp tục vẽ trang trí theo yêu cầu của khách hàng, rồi qua công đoạn tráng men và cuối cùng là nung. Mỗi sản phẩm cho dù kích thước bé xíu như chiếc hộp tăm, đũa ăn cơm hay các bể cảnh cỡ đại đều trải qua quá trình nung trong vòng 6 tiếng, nhiệt độ lên tới 1.700 độ.

Cho đến nay, con người và các nhà khảo cổ học đã tìm thấy hàng chục ngàn di tích tại Kim Lan để giúp khu vực Hàm Rồng ở xã Kim Lan được công nhận là một khu khảo cổ học.
Kim Lan hiện đang sản xuất nhiều loại sản phẩm chất lượng cao không chỉ cung cấp cho thị trường nội địa mà cả nước ngoài, như Nhật Bản và Hàn Quốc. Cùng với các làng gốm ở Phú Lăng ở tỉnh Bắc Ninh và Bát Tràng ở Hà Nội, làng Kim Lan tiếp tục duy trì và phát triển nghề thủ công truyền thống.

Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017

Sản Phẩm Gốm Sứ Bình Dương Phục Vụ Cho Trong Nước Và Quốc Tế

Sản xuất các sản phẩm sứ chất lượng cao đảm bảo an toàn sức khoẻ cho người tiêu dùng, làng gốm Bình Dương nổi tiếng khắp thế giới cùng với làng nghề Bát Tràng, Trắng An. Các làng này cũng thu hút nhiều tour du lịch đến Bình Dương và nhiều khách du lịch trong nước đi du lịch Việt Nam.

Các làng gốm ở Bình Dương nằm ở các xã Hưng Đỉnh, Thuận Giao, Bình Hòa ở huyện Thuận An và thị xã Thủ Dầu Một. Hiện nay, ngành công nghiệp gốm sứ ở Bình Dương có sự phát triển mạnh mẽ và đạt trình độ cao từ sản xuất đồ gia dụng đến các sản phẩm sứ công nghiệp.

Sản phẩm sứ Bình Dương nổi tiếng khắp thế giới cùng với làng gốm Bát Tràng, Tràng An, Biên Hòa ... Bên cạnh hàng trăm xưởng gốm với phương pháp sản xuất thủ công truyền thống, Bình Dương có nhà sản xuất các sản phẩm sứ cao cấp Bằng cách sử dụng công nghệ hiện đại, máy móc và dây chuyền sản xuất. Đó là Công ty TNHH Minh Long 1

Minh Long 1 được sáng lập vào năm 1970 bởi Lý Ngọc Minh, một thợ thủ công dành thời gian cho các sản phẩm sứ. Ông là thế hệ thứ ba trong một gia đình có truyền thống làm đồ sứ. Nghiên cứu kinh nghiệm và công nghệ gốm của người tiền nhiệm cùng với việc nghiên cứu những công nghệ hiện đại không ngừng, ông đã làm ra những đồ sứ chất lượng cao. Tất cả những nỗ lực của ông đều tạo ra thương hiệu Minh Long 1.
Bởi nơi đây có nguồn nguyên liệu (kaolin) tại chỗ khá dồi dào, hệ thống giao thông thủy bộ thông suốt, rất lý tưởng cho phát triển nghề gốm. Và cho đến nay, Lái Thiêu vẫn được xem là trung tâm phát triển gốm sứ của Bình Dương. Từ đây, nghề gốm phát triển dần lan rộng đến các vùng phụ cận thuộc An Thạnh, Hưng Định (Thuận An), Tân Phước Khánh (Tân Uyên).

Ảnh 1. Các sản phẩm gốm sứ được ra đời bởi đôi bàn tay nhào nặn của các nghệ nhân 

Theo ghi nhận trong tập tài liệu Monographie de la province de Thudaumot, được Hội nghiên cứu Đông Dương xuất bản năm 1910, người Pháp viết về nghề gốm Lái Thiêu như sau: Trong tỉnh (Thủ Dầu Một), có được khoảng 40 lò gốm, trong đó An Thạnh 5 lò, Tân Thới 1 lò, Phú Cường 11 lò, Bình Chuẩn 3 lò, và 9 lò ở Tân Khánh. Xưởng chính ở Lái Thiêu và nơi đây là trung tâm phát triển nhất về nghề gốm. Ngoài 3 lò của người Việt, số còn lại là của tư sản Hoa kiều. Các lò này cung cấp đồ gốm cho cả xứ Nam Kỳ.

Kết quả khai quật khảo cổ học trong thời gian qua ở Gò Đá – Dốc Chùa, Cù Lao Rùa, Phú Chánh, Mỹ Lộc… thuộc Bình Dương, cho thấy nghề gốm nơi đây ra đời từ khá sớm do nhóm cộng đồng cư dân Việt – Hoa di cư đến vùng đất này tạo lập vào khoảng cuối thế kỷ 19. Cũng như các trung tâm gốm sứ Đông Nam bộ (Đồng Nai, Sài Gòn), gốm sứ Bình Dương ở giai đoạn đầu hình thành sản phẩm mang phong cách truyền thống gốm Phúc Kiến. Vào thời gian đầu Bình Dương sản xuất những sản phẩm gốm gia dụng: lu, vại, nồi đất, tô, chén, ấm trà… phục vụ cho nhu cầu nội địa.

Vào những năm 1950 – 1960, các lò gốm ở đây mới bắt đầu sản xuất thêm gốm sứ trang trí phục vụ cho nhu cầu trong và ngoài nước. Trong những thập niên cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, gốm Bình Dương bước vào giai đoạn chuyển đổi công nghệ theo quy trình sản xuất công nghiệp hiện đại, hầu hết các lò nung truyền thống được thay thế bằng lò nung điện hoặc gas; mẫu mã sản phẩm, màu men, trang trí mỹ thuật đa dạng và sắc sảo hơn… đại diện là dòng gốm mỹ nghệ cao cấp Minh Long.

Nói chung, tổ chức sản xuất hiện nay chủ yếu là máy móc. Công nghệ đã giải phóng đáng kể sức lao động chân tay, sản phẩm ra lò có chất lượng tốt hơn, đồng đều, mẫu mã đẹp… Tuy nhiên, với phương cách sản xuất theo công nghệ hiện đại, mặt hàng gốm sứ có chất lượng tốt nếu xét về mặt công nghiệp. Nhưng xét về yếu tố sáng tạo, vẻ đẹp và tâm hồn, tính nhân văn trong sản phẩm thì hoàn toàn thiếu vắng. Vì các qui trình thủ công, tính sáng tạo trên sản phẩm theo “tâm trạng” của nghệ nhân bị mất đi. Vì để tạo một sản phẩm gốm phải trải qua qui trình luyện đất, tạo dáng, trang trí hoa văn, tráng men, sau cùng xếp vào lò nung… Với sự sáng tạo và đôi tay khéo léo của người thợ gốm, gốm sứ Việt Nam đã trở thành loại hình nghệ thuật mang tính dân gian đặc sắc. Sản phẩm hiện có đến vài chục ngàn mẫu mã; các hoa văn, họa tiết trên sản phẩm được cách điệu từ động vật, thực vật trong văn hóa dân gian và hiện đại (mục đồng chăn trâu thổi sáo, phong cảnh đất nước, thi phú…).

Trong giai đoạn hiện nay, gốm sứ Bình Dương có sự phát triển vượt bậc so với trước, sản phẩm được khách hàng trong và ngoài nước ưa chuộng. Đặc biệt những sản phẩm gia dụng, sản phẩm gốm sứ cao cấp dùng làm trang trí rất được thị trường châu Âu và châu Mỹ ưa chuộng. Trong mỗi sản phẩm kết tinh sự pha trộn hoàn hảo của chất liệu thuần Việt, dưới sự sáng tạo tài tình của các thợ gốm Việt – Hoa, nên mang nét độc đáo riêng. Chính những đường nét, hoa văn, mẫu mã thu hút du khách đến tận nơi sản xuất để xem và thưởng thức nghệ thuật. Và các lò gốm hiện cũng đang khẳng định và trên đường trở thành trung tâm du lịch làng nghề mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam.

Nghề gốm Bình Dương hiện phát triển mạnh ở 3 nơi: Lái Thiêu, Chánh Nghĩa và Tân Phước Khánh. Tạm chia làm 4 giai đoạn: giai đoạn hình thành và phát triển (1867 - 1945); giai đoạn thịnh vượng (1945 - 1975), giai đoạn tiến bộ kỹ thuật (1975 -1986) và giai đoạn đoạn tái phát triển (1986 đến nay).

Hơn 150 năm hình thành và phát triển, gốm sứ Bình Dương tuy có lúc thăng trầm nhưng nhìn chung vẫn liên tục phát triển, đóng góp quan trọng cho kinh tế, xã hội của địa phương. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, lưu dân người Việt – Hoa và cộng đồng cư dân bản địa đã chung lưng đấu cật, cùng với sự giao thoa văn hóa nhiều miền kết tinh thành bản sắc văn hóa đặc trưng của người Bình Dương mà điển hình là các nghề truyền thống. Các họa tiết, hoa văn đã thể hiện rõ điều đó trên từng sản phẩm gốm sứ và đã chinh phục trái tim, trí tuệ của nhiều người trên khắp thế giới.
Tại Bình Dương, gốm sứ Minh Long 1 có tính năng vô cùng đặc biệt đó là công nghệ màu ở nhiệt độ 1.250oC. Nó được cho là thành công đầu tiên trên thế giới bởi vì nhiều nhà sản xuất gốm sứ nổi tiếng trên thế giới thường màu ở nhiệt độ 850oC. Công nghệ này giúp người vẽ astisans vẽ bản vẽ không hư hỏng, sản phẩm có độ sáng. Ngoài ra, những hình ảnh chìm sâu vào trong men tạo không gian 3 chiều. Đây là một trong những công nghệ khó áp dụng vì khi vẽ ở nhiệt độ cao, men sẽ tan chảy, cấu trúc màu sẽ bị thay đổi, đường vẽ sẽ được di chuyển.

Ảnh 2. Gốm sứ Bình Dương có cơ hội vươn xa ra thị trường ngoại quốc 

Sản phẩm sứ Minh Long 1 không chỉ đẹp mà còn an toàn cho sức khoẻ của người tiêu dùng. Họ thực sự thu hút nhiều khách du lịch quốc tế từ Nhật Bản, Hoa Kỳ, Châu Âu, vv

Nếu ai có cơ hội đến thăm Bình Dương trong chuyến đi Việt Nam, bạn nên đến làng gốm Bình Dương, nơi bạn có thể thưởng thức đồ sứ đẹp và chất lượng cao hoặc mua một số sản phẩm làm quà tặng cho người thân của bạn.