Chủ Nhật, 28 tháng 5, 2017

TÀI NĂNG CỦA CÁC NGHỆ NHÂN GỐM THỜI KỲ UNG CHÍNH

Ngày xưa, ở thời kỳ Ung Chính có một sự thịnh vương phát triển mạnh mẽ về văn hóa và kinh tế, từ việc phát triển các lò nung, các bếp lò, nghệ thuật nung nấu và những tài nghệ của những người dân trong thời đó được đánh giá rất cao, do đó các sản phẩm gốm thời Ung Chính cho ra đời nét tinh xảo, đặc sắc, mặc dù là thời kỳ xưa nhưng nhưng tài nhân ở dây đã biết cách vận dụng các công nghệ làm nghề tinh xảo, tinh vi để áp dụng vào công nghệ làm gốm, có  thể nói men gốm của thời kỳ này đặc biệt tốt và được các chuyên gia thời nay đánh giá cao về men gốm.

Về phần phôi của các sản phẩm gốm thời này đã đạt đến trình độ khiến nhiều người trầm trồ ngạc nhiên. Để làm ra những món đồ gốm tuyệt hảo này, những người nghệ nhân làm ra chúng đã phải qua các quá trình chọn lọc phôi rất kỹ càng, do đó cho ra đời phôi gốm chắc chắn trắng và rất mịn. Điểm nổi bật của những món đồ gốm cũng thể hiện rõ nét qua màu sắc, màu sắc trắng, trong trẻo, nhìn rất tinh vi. Những người nghệ nhân khi muốn tại hình những chiếc dĩa, bát thế này thì họ đã phải rất là cần cù chăm chỉ đặc biệt là tỉ mỉ trong từng công đoạn sản xuất phôi gốm, do đó, nhờ vào phơi gốm tốt, họ đã cho ra đời những chiếc bát, dĩa, bình hoa… rất là đẹp mắt, mang tính nghệ thuật cao

Về dòng men: chiếm vị trí chủ đạo là dòng men trắng vẽ lam, men nâu vẽ lam. Ngoài ra, chiếm số ít là dòng men nâu/trắng không trang trí, men trắng không trang trí, men trắng Bạch Định.

Ảnh 1. Hoa văn thể hiện những nét bình dị trong cuộc sống hằng ngày

Về loại hình và kiểu dáng: trong bộ sưu tập này có hai loại hình là gốm sứ gia dụng và gốm sứ trang trí. Gốm sứ gia dụng có nhiều loại như ly, chén, ấm uống trà, nậm rượu, đĩa, bát, tô, cốc, ca, hộp đựng nữ trang… Đồ gốm sứ trang trí trong nhà chiếm số lượng ít, gồm có chóe, bình, lọ, hũ, ống cắm bút, tượng người, tượng động vật. Ta có thể thấy những vật dụng rất bình thường như ấm chén, bát đĩa, âu, bình, lọ… được tạo dáng nhẹ nhàng, thanh tú rất ăn ý với bố cục hoa văn trải kín thể hiện bàn tay mềm mại, trau chuốt của các nghệ nhân.

Loại hình chén (ly) uống nước chủ yếu là cỡ trung bình, đường kính từ 5 – 7cm. Kiểu dáng phổ biến là miệng loe hoặc đứng, sâu lòng, thành cong, đế thấp nhỏ.

Loại hình ấm uống trà đa phần có kích thước nhỏ, đường kính từ 4 – 6cm, chiều cao từ 8 – 10cm kiểu dáng miệng loe, cổ thấp, thân phình hình quả, đế thấp. Ta có thể thấy cách tạo dáng ấm trà rất phong phú ấm hình quả cam, ấm hình quả bưởi, ấm hình quả trám, ấm hình quả lê, ấm hình quả ổi, ấm hình bát giác…
Loại hình nửa hộp sứ đường kính từ 5 – 10cm kiểu dáng miệng khum, nông lòng, thành cong, đế thấp.
Loại hình nắp sứ có hai loại núm tròn và núm như búp hoa sen. Đường kính loại nhỏ từ 5 – 7cm, loại trung từ 8 – 10cm và lớn 12cm.
Loại hình tượng gốm sứ  trang trí gồm có tượng người, tượng.
Về hoa văn trang trí: cổ vật gốm sứ Ung Chính nói riêng và gốm sứ Nhà Thanh nói chung văn trang trí rất phong phú, đặc sắc. Nghệ thuật sử dụng bút lông vẽ tranh được vươn tỏa trên đồ gốm sứ. Với màu coban, người thợ gốm Trung Hoa đã thể hiện tài tình những bức sơn thủy chỉ trong một diện tích rất nhỏ của một ô hình cánh hoa. Tìm hiểu hoa văn, đề tài trang trí trên gốm sứ ta sẽ thấy rõ được những đặc điểm gốm sứ thời kỳ này cũng như những giá trị tinh thần đồ gốm sứ ấy muốn chuyển tải. Từ những trang trí đơn giản như băng hoa văn hình học làm đường diềm cho đến những bức tranh công phu tả động vật, thực vật, phong cảnh sơn thủy, hay những điển tích…Tất cả hiện lên thật sinh động trên những sản phẩm gốm sứ qua tài năng của các nghệ nhân.

Hoa văn đường diềm: Đây là loại hoa văn được dùng rất phổ biến trên bộ sưu tập gốm sứ. Văn diềm được trang trí trên vành miệng, phần chân của chén bát, đĩa, hộp, lọ, chóe, ống cắm bút… Một số loại hoa văn thường được dùng là băng dây hoa, băng lá me, băng vân mây, băng đồng tiền, băng chữ Vạn, vạch đan chéo, đường gấp khúc, hình thoi, hình xoắn ốc.

Hoa văn đề tài thực vật: Đề tài trang trí phần lớn là những mô típ hoa văn quen thuộc của nghệ thuật gốm sứ Nhà Thanh. Chúng ta sẽ bắt gặp hình ảnh những chuỗi hoa dây cách điệu như hoa hồng, hoa cúc, hoa hướng dương, hoa mai uyển chuyển mềm mại. Ta có thể thấy sức sống mãnh liệt của thiên nhiên qua hình ảnh những cây hoa hồng, hoa cúc, hoa mai mọc vươn lên khỏe khoắn từ những hốc đá, bờ tường. Sự kết hợp giữa các loài hoa với nhau, giữa các loài hoa với chim, với bướm…tạo nên những phức hợp thiên nhiên sinh động tươi đẹp.

Hoa văn đề tài phong cảnh: Trên gốm sứ đời Ung Chính các nghệ nhân dùng màu men lam vẽ phong cảnh sơn thủy, nhà cửa lầu đài, con người rất thành công. Từ cách tô màu đến trang trí bố cục hoa văn đều toát lên phong cách phóng khoáng, thoáng đãng nên những bức tranh phong cảnh rất hài hòa mà không bị chi tiết dày đặc. Qua nét bút trau chuốt, tỷ mỉ những phong cảnh hiện lên vừa hùng vĩ cảnh núi sông vừa cô tịch bóng chùa thấp thoáng, ẩn hiện dưới khói lam mờ ảo. Rất nhiều cổ vật văn họa tả cảnh núi non sông nước mênh mông, trên sông đơn độc người lái đò như ngụ ý rằng thiên nhiên thật rộng lớn, bao la mà con người thật nhỏ bé. Một số ít hiện vật gốm sứ trang trí phong cảnh nhà cửa vùng thôn quê, phong cảnh mùa đông vùng nông thôn, nhà cửa kiểu Châu Âu.

Hoa văn đề tài con người: So với bộ sưu tập gốm sứ cổ vật thời Khang Hy (cổ vật Hòn Cau – Côn Đảo), đề tài hoa văn vẽ người rất khiêm tốn thì bộ sưu tập cổ vật Ung Chính đề tài trang trí về con người rất phong phú, đa dạng. Xem bộ sưu tập ta thấy tình cảm chân thực đầy hứng khởi của người nghệ sỹ trong quá trình sáng tác đã tạo ra những hình mẫu trang trí về con người hoàn thiện và sinh động. Những hình mẫu nhân vật thường được trang trí trên gốm là vẻ đẹp của các thiếu nữ trẻ trung bên cạnh cụ già, những tiểu thư khuê các trong thư phòng, phú ông cưỡi ngựa và tiểu đồng theo hầu, những chàng công tử gặp gỡ các tiểu thư… Bên cạnh đó, phong phú hơn cả là những đề tài trang trí gần gũi với cuộc sống dân dã đời thường như cảnh những người đàn ông ngồi trà rượu đàm đạo, những người phụ nữ xách giỏ ra chợ, ngư phủ chèo thuyền buông lưới, những lão tiều ngư câu cá, những chú mục đồng bắt cá, tiểu đồng nơm cá. Một số cổ vật họa tiết sinh động các trò chơi dân gian như thả diều, đá gà, nhảy dây, múa ca…

Ảnh 2. Hoa văn tinh xảo kết hợp với màu sắc hòa nhã 

Hoa văn điển tích Trung Hoa: Trong bộ sưu tập cổ vật Ung Chính đề tài này được trang trí không nhiều. Trên một vài chén sứ vẽ tích Lã Vọng câu cá ở sông Vị (Lã Công điếu Vị). Cảnh vẽ là một bờ sông có ông già ngồi câu cá cạnh ông có một tiểu đồng. Theo điển tích, Khương Thượng được phong đất Lã nên cũng lấy tước làm họ, gọi là Lã Thượng, tự là Tử Nha. Ông vốn người đất Đông Hải. Thời Chu, vì vua Trụ hà khắc, ông về quê ẩn dật chờ thời lúc tuổi đã 72, ngày ngày thả câu bên bờ sông Vị. Đề tài bát tiên được trang trí trên một số chén sứ, đĩa sứ với hình ảnh vị tiên Trương Quả Lão tay cầm gậy đứng bên sông hay đang đi trên cầu.


Nói tóm lại, hoa văn trên gốm thời Ung Chính mang một nét đẹp rất riêng, những nét hoa văn được trang trí rất tỉ mỉ, hình thù đa dạng từ những đóa hoa văn đầy màu sắc, tỉ mỉ từ hoa nhỏ đến hoa lớn với đủ màu khác nhau, đủ kiểu dáng khác nhau, cũng cho ta thấy được long tâm huyết ngồi hàng giờ đồng hồ để tập trung miệt mài để vẽ ra những hình ảnh đó. Hơn thế, màu sắc vô cùng hòa nhã, khi họa tiết càng nhiều càng đủ loại thì việc phối màu cho họa tiết lại càng trở nên khó khăn, những họ đã phối màu vô cùng tuyệt vời. Chắc hẳn họ đến với nghề bằng cả tâm huyết nên mới tạo ra được những kiệt tác động long người đến vậy

Thứ Bảy, 27 tháng 5, 2017

Điều Gì Đã Làm Nên Đặc Trưng Của Dòng Gốm Nổi Tiếng – Biên Hòa ( Phần 2)

Gốm sứ Biên Hòa là sự kết hợp giữa đồ gốm Việt Nam, Trung Quốc và kiểu phương Tây, đặc biệt là của trường Limoges, Pháp. Các đặc trưng dân gian của gốm địa phương đã được nghiên cứu và phát triển bởi người Pháp, và theo thẩm mỹ học để tạo ra một dòng gốm độc đáo; Gốm sứ nghệ thuật Biên Hòa. Thiết kế của nó đã đạt được mức độ thẩm mỹ rất cao và kỹ thuật không thể so sánh được. Các sản phẩm gốm sứ trang trí nội thất và đồ trang trí ngoại thất của dòng này, được nhìn thấy trong nhiều dự án khác nhau, đã giới thiệu việc sử dụng thực tế của gốm sứ Biên Hòa từ những năm 1920.

Ảnh 1. Các sản phẩm gốm Biên Hòa luôn thu hút sự chú ý của các du khách nước ngoài 

Càng ngày gốm Biên Hòa càng khẳng định vị thế của mình trên thị trường gốm Việt với nét tính mỹ thuật cao, chất lượng thì không thua kém bất kỳ một loại gốm nào nổi tiếng của Việt Nam. Hơn thế nữa, gốm Biên Hòa còn chứng tỏ cho những người trong nước nói chung và nước ngoài nói riêng thấy được sự phát triển không ngừng nghỉ của nghệ thuật trang trí, kiểu dáng nổi bật của gốm sứ Biên Hòa.

Biên Hòa còn nổi tiếng bởi các sản phẩm gốm đất nung (gốm đỏ) không phủ men, mang vẻ đẹp tự nhiên. Sản phẩm gốm men xanh trổ đồng rất được thị trường ưa chuộng. Một trong những dòng sản phẩm gốm Biên Hòa được ưa chuộng nhất đó là tượng, đặc biệt là những phù điêu tranh lịch sử hoặc lễ hội dân gian rất công phu, các họa tiết chạm khắc khéo léo; những viên gạch gốm trổ thủng tạo thành các ô cửa sổ, gạch gốm bông lót các bậc thềm tam cấp...

Để đánh giá chất lượng của một sản phẩm gốm sứ, con người thường dựa vào những tiêu chí sau: nhất dáng, nhì xương, tam men, tứ trí. Như vậy, nghệ thuật tạo hình gốm là hết sức quan trọng bởi hình dáng sản phẩm là yếu tố đứng hàng đầu. Nó là cốt lõi của sản phẩm, là cơ sở để nghệ nhân tiến hành các hình thức trang trí khác. Hình dáng của sản phẩm gốm được quy định bởi nếp sống, nếp suy nghĩ, cá tính, trình độ thẩm mỹ của nghệ nhân sáng tạo cũng như công chúng mà nó hướng tới. Nó còn được quyết định bởi xu hướng và quan niệm thẩm mỹ của thời đại. Cuối cùng, đó là sự kết hợp của đường nét và mảng khối trong nghệ thuật tạo hình ba chiều với sự cho phép của chất liệu.

Trong những sản phẩm gốm gia dụng như lu, khạp, nồi đất, yếu tố công năng giữ vai trò quyết định về hình dáng. Tuy nhiên, chúng đều mang một vẻ đẹp chắc khỏe và đĩnh đạc. Sự liền lạc và dịu dàng của đường cong tạo ra cái lu, nồi đã toát lên vẻ đẹp bình dị, mộc mạc như tính cách vốn có từ ngàn đời của người dân Việt Nam.

Gốm Biên Hòa có vô vàn kiểu dáng với nhiều chủng loại khác nhau, song vẻ đẹp truyền thống mang tính đặc trưng của nó thể hiện qua hai khía cạnh: sự cân đối, hài hòa về hình dáng của sản phẩm cùng với nét độc đáo đầy tính thẩm mỹ qua các phù điêu và tượng nhỏ.

Khái niệm hài hòa thực sự là cái đích luôn mong muốn vươn tới của người nghệ nhân trong sáng tạo. Có nhiều yếu tố tạo ra sự hài hòa của một sản phẩm, ví dụ như kích thước của chiều cao và chiều rộng, của độ lớn hông bình với các bộ phận khác, của miệng và đáy bình, của từng bộ phận so với tổng thể. Có dạng bình tròn như trái bóng, hoặc là sự mô phỏng đường cong của tang trống. Phần miệng bình luôn dẫn người xem từ cảm giác chắc khỏe, đến sự dịu dàng và cao quý toát ra qua những tai bèo mềm mại. Phần cổ của bình lại hướng tới độ thanh thoát và là nhịp nối gắn kết sự hòa hợp giữa miệng và phần dưới của bình.

Đôn và bộ bàn gốm là một dạng đặc trưng của gốm Biên Hòa, có một số dáng đôn được sản xuất như loại đơn giản giống một cái trống, loại đôn ba mặt bợm và đôn voi. Đôn ba mặt được tạo dáng khá đẹp với một chỉnh thể gọn, hài hòa giữa mặt đôn để ngồi và thân đôn là phù điêu nổi cao của lân, một trong tứ quý lân,  ly, quy, phụng. Đôn voi lại là sự mô phỏng theo hình dáng của con voi theo hai dạng là loại vòi voi cất cao lên trên và loại thứ hai thì vòi của voi đi xuống. Cái đẹp của đôn là sự kết hợp hài hòa giữa tạo hình và hình thức trang trí rất chi tiết của nó.

Tượng Phật, Bồ tát, La hán… đã được các nghệ nhân gốm Biên Hòa chú trọng khai thác, sáng tạo bằng tất cả ngưỡng vọng và tâm hồn hướng đến cái đẹp, cái thiện. Những mẫu tượng thường thấy trong gốm Biên Hòa như Phật Thích Ca Mâu Ni với nhiều kiểu dáng nhập định, trì bình, cảm hóa rắn Naga, cầm bình bát, cầm bạch ngọc… Một số kiểu tượng Đạt Ma Tổ sư cũng được khai thác rất phong phú. Đặc biệt là tượng Bồ tát Quán Thế Âm. Có thể nói, trong các sản phẩm gốm mỹ nghệ Biên Hòa thì tượng và tranh gốm về Bồ tát Quán Thế Âm chiếm đa số.

Bên cạnh truyền thống tư duy, sáng tác dựa theo những yếu tố về tâm linh và dân gian thì môi trường sống với thiên nhiên tiếp xúc hàng ngày đã tác động quyết định đến cách nghĩ, cách làm của người dân bản địa. Hoa văn trang trí trên gốm Biên Hòa rất phong phú, với các loại từ hoa văn truyền thống của dân tộc đến những họa tiết riêng của vùng miền và nhiều môtip hiện đại khác. Sự đa dạng của hoa văn truyền thống đã đưa trang trí gốm Biên Hòa trở nên gần gũi với những người nuôi dưỡng và sử dụng nó. Gốm Biên Hòa có rất nhiều đồ án trang trí sử dụng chất liệu xung quanh mình. Đó là hình ảnh những loài hoa, con vật rất quen thuộc với địa phương như mai, cúc, bằng lăng, nai, cò, trâu hay tôm, cá...

Trong trang trí gốm Biên Hòa, ngoài những tượng đài và phù điêu hoành tráng, hình tượng con người còn được thể hiện rất phong phú qua những đề tài có sự nghiên cứu kỹ lưỡng. Mỗi đề tài đều gắn với một điển tích, một cảnh sinh hoạt hay một cốt truyện cụ thể trong dân gian. Nó là những lời ngợi ca các anh hùng, ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam trong lịch sử đấu tranh và lao động của mình. Nhờ sự kết hợp hài hòa của nhiều màu men, mỗi đồ án trang trí hiện diện như một tác phẩm hội họa với đầy đủ các yếu tố về bố cục, đường nét, không gian, thời gian… Nhiều đồ án trang trí về hình tượng người toát lên một chất dân gian đầy tính nhân văn của trang trí gốm Biên Hòa.

Phong cách thể hiện thủ pháp trang trí luôn tạo ra những đặc trưng riêng biệt của một dòng gốm. Trong trang trí gốm Biên Hòa, phong cách trang trí của gốm men ngọc hay gốm hoa nâu được kế thừa và phát triển hơn qua những tai sen trên vai sản phẩm, những lằn khắc sâu họa tiết rồi mới phủ men. Các mảng màu men trang trí được phân định rõ ràng. Men màu trên gốm Biên Hòa rất phong phú, có cả hệ màu sáng lẫn men màu trầm, mỗi sản phẩm có thể được phối hợp nhiều màu rất hài hòa, tạo ra đặc điểm vùng miền của gốm Biên Hòa. Các men màu thường được điều chế từ chất liệu của địa phương. Tuy nhiên, ngày nay đã có rất nhiều hóa chất và men màu được nhập từ ngoài vào đã làm đa dạng thêm sắc màu trên gốm Biên Hòa. Tất cả các phong cách trang trí ấy đều được nghệ nhân gốm Biên Hòa sử dụng và sáng tạo cho hoàn thiện hơn.

Đầu TK XX, người Pháp đã thành lập các trường đào tạo kỹ thuật, mỹ thuật ở Việt Nam, giảng dạy và truyền thụ cho người Việt kiến thức khoa học phương Tây về lĩnh vực mỹ thuật, trong đó có trường Mỹ nghệ thực hành Biên Hòa, cái nôi của gốm Biên Hòa trong TK XX. Chính sự kết hợp của các quan niệm và kỹ thuật của cả phương Đông và phương Tây đã tác động rất nhiều đến yếu tố thẩm mỹ của gốm Biên Hòa. Các sáng tác trang trí từ đây đều dựa trên nền tảng của lý luận mỹ thuật. Trong nhiều đồ án trang trí, những yếu tố như bố cục, đường nét, mảng miếng, phối màu… được chắt lọc, sắp xếp theo các quy tắc của nghệ thuật trang trí.

Ảnh 2. Gốm mỹ nghệ Biên Hòa xưa 

Để giải thích nguyên nhân vì sao đồ gốm Biên Hòa được ưa chuộng trên thị trường quốc tế, Tổng thư ký Hiệp hội Gốm mỹ nghệ Đồng Nai cho hay: "Gốm Biên Hòa đẹp và độc đáo trong cả hoa văn lẫn hoa văn vì đây là sản phẩm có Pha trộn ba loại gốm của Việt Nam, Trung Hoa và Chăm ". Hiện nay, các hội thảo ở Biên Hòa sản xuất hai loại gốm sứ lớn, bao gồm mỹ thuật và đồ gốm bằng đất sét trắng với kỹ thuật đánh bóng dưới nước và trực tiếp tạo ra các mẫu hoa văn trên gốm và gốm đất sét đen cháy ở nhiệt độ cao .
Ngoài ra, Biên Hòa còn sản xuất các sản phẩm đất nung bisque (gốm đỏ) với vẻ đẹp đơn giản và tự nhiên mà khách hàng mong muốn. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, các nghệ nhân ở Biên Hòa đã nỗ lực rất lớn để khôi phục loại gốm bằng men đồng màu xanh lam.

Mặc dù doanh thu của nghề thủ công mỹ nghệ tại Biên Hòa đã đạt khoảng 1 triệu USD / năm, nhưng con số này khiêm tốn so với 10 năm trước. Để tiếp tục phát triển nghề thủ công, nó cần những nỗ lực và sự quyết tâm của các nghệ nhân và sự hỗ trợ và chính sách lành mạnh của chính quyền.

Thứ Tư, 17 tháng 5, 2017

Phân tích về phong cách trang trí hoa văn trên gốm Cù Lao Chàm


Các đồ gốm cổ được phục hồi từ vụ đắm tàu Cù Lao Chàm không chỉ phong phú về các loại vật thể mà còn trong phong cách và những hình ảnh được miêu tả trong đồ trang trí. Có vẻ như thiên nhiên và xã hội đã hoàn toàn biến đổi thành nghệ thuật gốm sứ thông qua tay các nghệ sĩ đương đại tài năng. Trong khi chủ đề con người hiếm khi được trình bày trong gốm Việt Nam, bộ sưu tập này cho thấy nhiều hình ảnh khác nhau của người dân về cuộc sống hàng ngày của họ.

Ảnh 1. Những cổ vật được khai quật dưới đáy biển Cù Lao Chàm 

Nét nổi bật của gốm Cù Lao Chàm không thể không nhắc đến đó là hoa văn họa tiết trên gốm. Trong một số hoa văn họa tiết, ta có thể thấy hình ảnh của cuộc sống hằng ngày của người dân được miêu tả trong một phong cảnh thanh bình và phong phú. Một hoặc hai ngôi nhà có mái che che giấu đằng sau những ngọn núi; Nông dân trên đường về nhà mang theo thiết bị làm nông của họ sau một ngày khó làm việc trên đồng ruộng.
Khoanh đối tượng tư liệu khảo sát là như thế, song bài viết này cũng không có tham vọng thống kê được toàn bộ hoa văn trang trí gốm trong tàu, bởi chúng phong phú đến mức, cả Tống Trung Tín và tôi, trong báo cáo của mình, đã từng nhận xét: “hoa văn trên sưu tập gốm Cù Lao Chàm là phong phú nhất, đa dạng nhất, với nhiều đề tài mới lạ và vô cùng đẹp mắt”

Nói như thế, xin được một dịp khác, với độc giả, quay lại đề tài này kỹ lưỡng và chu đáo hơn. Ở đây, tôi chỉ dám lướt nhìn các loại đề tài, theo đó, phân tích bút pháp trang trí, may chăng có đôi điều đóng góp vào cách nhận nhìn gốm Việt Nam thời Lê Sơ mà bao lâu nay, chưa mấy ai đề cập.

I- Điểm đôi nét về hoa văn trên gốm Cù Lao Chàm.

Gốm hàng hoá trên tàu cổ Cù Lao Chàm được đa số thống nhất là sản phẩm của các lò gốm thuộc các trung tâm gốm Hải Dương. Nói một cách cụ thể, đó là gốm của lò Chu Đậu, Mỹ Xá, Thăng Long.

Cho đến nay, còn có hai loại ý kiến về niên đại đồ gốm trên tàu. Học giả người Anh, Joh Guy, cho niên đại sưu tập này là nửa cuối thế kỷ XV. Tống Trung Tín, Vaxiliep, tôi và một số nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng, chúng có niên đại vào nửa đầu của thế kỷ ấy. Lý do thì có nhiều, kể cả từ hai phía, nhưng, bài viết này, chỉ gợi mở, để độc giả cùng suy nghĩ và cũng là sự bắc nối cho những nhận định dưới đây về hoa văn trang trí, nên niên đại tàu chỉ là một tiêu chí tham khảo mà thôi.

Gốm tàu cổ Cù Lao Chàm không chỉ có hoa lam, dù gốm hoa lam là chủ yếu, bên cạnh đó còn có gốm độc sắc (men lam xám, men trắng, men nâu, men caladon) và gốm men nhiều màu. Kể cả men nhiều màu cũng như men độc sắc, đều có hoa văn trang trí, tuy kỹ thuật có khác nhau. Chi tiết của từng loại hoa văn được thể hiện trên từng loại men sẽ không được đề cập cụ thể, cho dù, có sự khác biệt đáng quan tâm. Dẫu vậy, ở đây, tôi xin được bàn nhiều tới hoa văn trên gốm men nhiều màu và gốm men trắng vẽ lam.
Có thể nói khái quát rằng, hoa văn trên hai loại gốm này của tàu cổ Cù Lao Chàm bao gồm hai kỹ thuật, vẽ lam dưới men trắng, nung nặng lửa và vẽ màu trên men trắng, nung nhẹ lửa. Đề tài thể hiện trên hai loại gốm này khá đa dạng, có thể tóm tắt như sau:
– Đề tài con người được coi là khá hiếm hoi trong phổ hệ gốm Việt Nam nói chung, gốm men trắng vẽ lam thời Lê nói riêng, thì với sưu tập này, lại khá phong phú. Có thể khẳng định được rằng, đây là sưu tập giàu có nhất từ trước tới nay về đề tài con người ta được biết. Đó là các vị nam thần, nữ thần, tiên ông, tiên bà, những quý tộc trong lầu son gác tía, các cụ già thả câu, chèo thuyền, các trai tráng quản tượng, những chiến binh, những trẻ em nô đùa, cưỡi trâu thổi sáo…

– Đề tài động vật được thể hiện dưới hai dạng thức, đó là những con vật linh: rồng, lân, rùa, phượng và những con vật có thật trong đời thường như sư tử, voi, hổ, ngựa, trâu, bò, khỉ, hươu, chim đại bàng, vẹt, chích choè, chào mào, sáo, bói cá, vịt, thiên nga, chim sâu, dơi…

– Ở đây, chúng ta cũng còn gặp các loại côn trùng được tả thực rất sinh động: ong, bướm, chuồn chuồn…

– Rồi, cũng ở đây, còn có sự hội tụ của các loài thủy sinh được miêu tả, theo tôi là ấn tượng nhất, qua những nét vẽ cực kỳ phóng khoáng, nhưng chi tiết đến lạ lùng. Rắn, cá chép, cá măng, cá trê, tôm, cua, ếch… đều được đặt trong bối cảnh sinh thái, nên sống động và hấp dẫn.

– Đề tài phong cảnh sơn thuỷ cũng được thể hiện khá đa dạng: nhà cửa, chùa tháp, cung điện, cầu cống, sông nước, mây trời… Rất nhiều trong số đó như những trường cảnh của một cuốn phim: Một người phụ nữ đang tắm, khuất lấp sau một bụi cây, xa xa là một chú nhóc trèo lên cây ngó nhìn trộm và một người đàn ông ngoảnh mặt, đưa quần áo cho người phụ nữ đang tắm với thái độ và cử chỉ quá vụng về. Rồi một “đám cưới trên sông” với một nam, một nữ ngồi trên thuyền. Chiếc ô rộng xoè chở che cho đôi uyên ương quá giang. Còn rất nhiều, rất nhiều những cảnh tương tự mà tôi chỉ đưa ra đôi ba dẫn dụ để làm cơ sở cho những nhận xét ở phần sau.

– Đề tài hoa lá, cây cối chiếm số lượng nhiều hơn cả. Đó là hoa sen, hoa cúc, hoa mẫu đơn, tùng, mai, cúc, trúc và các loại cây cổ thụ, được thể hiện khi thì phóng khoáng kể cả trên bố cục cũng như nét vẽ, khi thì khuôn cứng trong các băng hẹp, khi thì tỉa tót đến chi tiết. Những loại cây hoa lá ấy, không có nhiều sự lạ lẫm trong đồ án, mà rất phổ biến trên gốm vẽ lam Việt Nam.

Điểm đặc biệt đáng lưu ý ở sưu tập gốm Cù Lao Chàm là, chúng ta chỉ thấy hoa văn men lam vẽ dưới men nung nặng lửa được thể hiện sinh động trong đề tài cũng như nét vẽ. Những màu vàng, màu xanh lục, màu đỏ nâu vẽ trên men dường như không tham gia vào bố cục và đề tài như một thành  phần chủ yếu, mà đó chỉ là những đường viền điểm xuyết để tạo nên sự sang trọng, nhưng lại càng làm cho đề tài thêm khuôn cứng vào những đường viền ấy. Đây là một đặc điểm của gốm men nhiều màu Việt Nam, so với Trung Quốc, ít nhất nhìn từ sưu tập gốm Cù Lao Chàm. Đặc biệt, cũng ở sưu tập này, men màu còn có sự tham gia của vàng kim, được vẽ thành những mảng khối, để tạo nên những cánh sen, chủ yếu cũng chỉ là những đường viền trang trí cho hoạ tiết chính yếu là men lam. Cách thể hiện này một mặt làm cho gốm đa sắc Việt có thêm sự cao sang, quyền quý, nhưng một mặt khác, lại làm cho tính phóng khoáng, bay bướm vốn thường thấy trên hoa văn gốm Việt, bị khô cứng vì phong toả từ những đường viền. Đây lại là một đặc điểm phổ biến của trang trí gốm men vẽ vàng kim, bởi một lẽ, vàng là một nguyên liệu quý hiếm, không thể sử dụng như một màu sắc chủ đạo của các loại hoa văn.
Có thể chắc chắn rằng, tôi chưa nhìn thấy men màu nung nặng lửa trong sưu tập gốm Cù Lao Chàm. Đây cũng là một hiện tượng mà gốm men Trung Quốc đồng thời ít thấy. Ở Việt Nam, thời Mạc, và đặc biệt là thời Nguyễn, gốm men nhiều màu nung nặng lửa mới xuất hiện nhiều.

Như vậy, hoa văn trên gốm men nhiều màu tôi đã có đôi dòng phân tích, cũng chỉ là một sự lướt qua, để độc giả có một khái niệm đầy đủ hơn về kỹ thuật thể hiện hoa văn trên sưu tập gốm này và vài lời miêu tả để thấy đôi nét đặc biệt về kỹ thuật cùng sự phổ quát của đồ án không có mấy sự lạ lẫm, để phần viết dưới đây sẽ dành chủ yếu cho sự phân tích phong cách trên gốm men trắng vẽ lam.

II- Phong cách trang trí hoa văn trên gốm Cù Lao Chàm.

Hà Văn Cẩn, trong luận án tiến sĩ của mình, khi nói về gốm Việt Nam trong giai đoạn này, anh có đưa ra một khái niệm mới lạ, thuần Việt, đó là phong cách thoáng và phong cách chặt. Sự thoáng và chặt ở đây có lẽ bao hàm cả hoạ tiết và bố cục. Chắc cũng chẳng có gì sai. Thế nhưng, thuật ngữ hội hoạ truyền thống Đông Phương nói chung và trên gốm nói riêng, cũng tương tự khái niệm này, người ta dùng công bút và phóng bút. Dường như với hai thuật ngữ ấy, người ta quan tâm nhiều tới nét vẽ, tới phong cách vẽ. Có thể bố cục của một đồ án hoa văn rất chặt, thậm chí, khuôn cứng là đằng khác, nhưng trong đó, người ta vẫn dùng lối vẽ phóng bút, hoặc ngược lại, đồ án có thoáng rộng, hoạ sĩ vẫn có thể dùng lối công bút để biểu đạt. Nói như thế, tôi vẫn thích và ưa dùng khái niệm truyền thống xưa nay.

Trong sưu tập gốm cổ Cù Lao Chàm thể hiện khá rõ hai phong cách này. Có những đồ án vẽ cảnh người phụ nữ tắm, như tôi đã trích dẫn trên đây, và nhiều đồ án vẽ sơn thuỷ, tùng đình, tam hữu, cá chim, với những nét tỉ mỉ, li ti như sợi tóc được biểu đạt trên những hiện vật rất nhỏ, khuôn trong những hình tròn, ô vuông chữ nhật… Song, cũng là vẽ cảnh, vẽ người, mà hội hoạ truyền thống Trung Quốc ưa dùng lối công bút, thì nhiều hiện vật của gốm Cù Lao Chàm, dùng lối vẽ phóng bút để diễn tả. “Đám cưới trên sông”, đạo sĩ hay chim chích choè, thiên nga…, chỉ bằng đôi ba nét, đã tạo nên một bức tranh sinh động. Tôi ưa nhìn và xúc động trước những tác phẩm ấy hơn. Dường như công bút không thích hợp với người Việt và đó cũng là một nhược điểm bởi kỹ thuật nung, chất liệu men quy định.

Khảo sát men lam trên sưu tập gốm cổ Cù Lao Chàm, tôi thấy có hai loại, một là lam Hồi, có màu xanh như mực Cửu Long, được nghệ nhân sử dụng phổ biến cho lối vẽ công bút, bởi lam Hồi có ưu Việt là không bị nhoè, không bị chảy khi nung ở nhiệt độ cao. Trong khi ấy, một loại men lam xanh đen, mà người Trung Quốc coi đó là nội địa, hay bị nhoè, bị chảy, nên không thích hợp với lối vẽ này, do đó, sử dụng chủ yếu để vẽ phóng bút.

Có thể đây chỉ là nhận xét mang tính phổ biến, nhưng với thợ thủ công Việt, lam Hồi vẫn được sử dụng để phóng bút, mà rất nhiều tác phẩm trong sưu tập Cù Lao Chàm tôi đã thấy. Tuy nhiên, màu lam xanh đen được sử dụng triệt để hơn trong lối vẽ này.

Với hai lối vẽ trên đây, đã có không ít nhà nghiên cứu ở trong và ngoài nước bảo rằng, đó là hai truyền thống riêng biệt giữa gốm Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam ưa phóng bút. Trung Quốc có truyền thống công bút. Và, cũng bởi thế, họ cho rằng, rất nhiều những sản  phẩm gốm Việt Nam xuất khẩu hoặc cung đình, hoàng tộc có lối vẽ công bút, do thợ gốm Trung Quốc làm. Lý do lịch sử được viện dẫn, bởi nhà Minh bế quan toả cảng (“Thốn bản bất hạ hải”), nên rất nhiều thợ từ Trung quốc sang Việt Nam làm thuê hoặc mở lò sản xuất, tạo điều kiện cho ngành nghề thủ công làm gốm của Việt Nam phát triển và hàng hoá gốm chiếm lĩnh thị trường thế giới ở thế kỷ XV – một thế kỷ hoàng kim của gốm sứ Đại Việt. Lý do hiện vật, họ lấy chiếc bình gốm Việt Nam nổi tiếng ở Thổ Nhĩ Kỳ, có niên đại Thái Hoà (1450), có minh văn nói về người phụ nữ họ Bùi vẽ chơi, mà chính bà là thợ gốm Trung Quốc di cư xuống Việt Nam, đến vùng Hải Dương để biểu diễn tài vẽ của mình.
 
Ảnh 2. Cổ vật gốm Cù Lao Chàm
Tương tự ý kiến này, các nhà nghiên cứu gốm Úc Châu, khi đến làm việc ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, có xem chiếc bình gốm mà Nguyễn Đình Chiến và Diệp Đình Hoa cho là của thời Nguyên, còn tôi thì cho là của Việt Nam sản xuất, có niên đại và hoa văn trang trí giống như bình Istambun, thì họ đã đồng ý về niên đại và xuất xứ chiếc bình, song cho đó là sản phẩm của thợ gốm Trung Quốc.

Có lẽ trong chúng ta, không mấy ai phủ nhận mối quan hệ, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giữa các trung tâm sản xuất gốm đương thời và trong mối giao lưu ấy, tần số phát sóng của các trung tâm gốm Trung quốc có thể mạnh hơn, khiến cho cả gốm Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Thái Lan… chịu ảnh hưởng. Nhưng, đó ắt không phải là sản phẩm trực tiếp của người thợ gốm Trung Quốc. Nhìn sưu tập gốm cổ Cù Lao Chàm, lối vẽ rất Việt dường như được thể hiện rất đậm trên từng tiêu bản tôi đã nhận ra, kể cả phong cách lẫn thể tài trang trí.

Trước hết, nói về phong cách, tôi có thể đưa ra hàng loạt ví dụ, để thấy rằng, ngay cả trên những sản phẩm vẽ công bút, nếu được coi là truyền thống vẽ Trung Quốc, thì tính quy chuẩn trong các đồ án hoa văn không cao. Đây lại dường như là một đặc điểm rất nổi trội trên gốm cổ Việt Nam. Cũng có người bảo rằng, sự thiếu quy chuẩn ấy, không thể lấy các sản phẩm lò quan Cảnh Đức Trấn để so sánh, mà gốm Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng từ gốm Quảng Đông (Trung Quốc) và những sản phẩm ấy là của thợ gốm Quảng Đông vẽ. Tôi chưa có mấy sự so sánh với gốm Quảng Đông đồng thời với sưu tập này, nhưng muộn hơn đó chút ít, cách vẽ của gốm Quảng Đông hoàn toàn khác. Tính bảo lưu và truyền thống sao dễ thay đổi được!

Cũng thuộc về phong cách, tôi thấy gốm sứ Trung Quốc tuân thủ chặt chẽ luật viễn cận (xa gần), bởi thế, mỗi tác phẩm của họ như một bức tranh của một hoạ sĩ. Trên những bức tranh ấy, các nhân vật được thể hiện khá chi tiết, mang tính giải phẫu của hội hoạ hiện đại. Thế nhưng, trên rất nhiều đồ gốm Cù Lao Chàm, cũng là những bức tranh, yếu tố ước lệ dường như vẫn là nét hằng xuyên của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Ở đây, ta còn gặp những tác phẩm không hề tuân thủ luật xa gần, không có không gian ba chiều, khiến cho chúng ta ngờ ngợ đó là những bức tranh dân gian của Đông Hồ, Kinh Bắc. Thật khó có một tư liệu để chứng minh nguồn gốc của những bức tranh dân gian kia là từ đây hoặc sớm hơn thế, nhưng phong cách thể hiện ấy, không thể phủ nhận sự giống nhau giữa chúng. Tuy nhiên, không phải tất cả gốm cổ Cù Lao Chàm được thể hiện như thế, cũng có nhiều bức tranh vẽ theo nguyên tắc của luật viễn cận, song nội dung đề tài lại hoàn toàn mang tính dân gian.

Có thể đưa ra một ví dụ rất điển hình, đã được giới thiệu, đó là cảnh người phụ nữ đang tắm. Đây là một loại đề tài ta chỉ thấy trong nghệ thuật dân gian. Và, trên không ít những mảng điêu khắc gỗ đình làng Việt đương thời, cũng thể hiện nhiều cảnh sinh hoạt dân gian, mà một trong những tác phẩm tiêu biểu là cảnh phụ nữ tắm trong đầm sen, được giới nghệ thuật cho đó như là một sự hoà quyện giữa nghệ thuật tôn giáo với nghệ thuật dân gian, để tạo nên một truyền thống nghệ thuật Việt, khó phân biệt đâu là cung đình, đâu là dân gian, đâu là tôn giáo.

Dân gian thì ở đâu mà chẳng có. Nghệ thuật gốm sứ ngoài cung đình của Trung Quốc cũng rất nhiều. Thế nhưng, những cảnh như thế này trên gốm sứ xuất khẩu, có lẽ chỉ thấy ở Việt Nam.

Dường như trong sưu tập gốm Cù Lao Chàm, mặc dù có rất nhiều tiêu bản vẽ sơn thuỷ, phong cảnh, tùng đài, song không hề thấy một nguyên mẫu nào của tích cổ Trung Hoa, trong khi ấy, ở Trung Quốc đương thời, tích Tam Quốc diễn nghĩa, Thuỷ Hử… là những đề tài thường được khai thác tối đa. Cũng vậy, trên gốm Cù Lao Chàm có “tam hữu”, “tứ quý”, “tứ linh”, nhưng cách diễn tả, bố cục không hề giống chút nào với gốm Trung Hoa cũng thể hiện những đề tài tương tự.

Tôi có thể trích dẫn ra đây rất nhiều tiêu bản để độc giả thấy được những yếu tố đặc trưng gốm Việt bên cạnh những thành tố ảnh hưởng Trung Hoa. Nhưng, những ảnh hưởng ấy không thể biến chúng như là những sản phẩm của người thợ gốm Hoa làm trên đất Việt. Đó chính là mục đích tôi muốn gửi gắm đến người đọc, những người quan tâm, để cùng chiêm nghiệm thêm, nếu như được tiếp xúc với gốm Việt Nam nói chung và gốm Cù Lao Chàm nói riêng.

Hình ảnh và thiết kế của đồ gốm cổ Cù Lao Chàm thể hiện cuộc sống con người cung cấp kiến thức và hiểu biết về cuộc sống làm việc và sinh hoạt hàng ngày của người dân, cảm xúc và hành vi, tương tác của con người, thời trang và văn hoá thế kỷ 15 của người dân Đại Việt - Một nhóm người khao khát tự do, bình an và lạc quan, những người yêu cuộc sống, cuộc sống và công việc của họ cũng như bản chất tươi đẹp của Việt Nam.


Thứ Sáu, 12 tháng 5, 2017

Người đàn ông sưu tầm hơn 100.000 món đồ gốm cổ cực giá trị ở Việt Nam

"Vua của Gốm" là một biệt danh mà các nhà sưu tập đồ cổ đã đặt cho ông Đinh Công Tường (đường Nguyễn Anh Thư, quận 12, TP HCM). Trong suốt 24 năm qua, ông đã làm việc và đi khắp Việt Nam. Cho đến nay, tài sản của người đàn ông 48 tuổi này đã vượt quá 100.000 món bao gồm ly, chén, đĩa, bình, nước ấm ... Tất cả đều có đặc trưng. Nằm trong các phòng với diện tích 2.000 m2.

Ông được biết đến như một nhà sưu tầm đồ gốm nổi tiếng tại Việt Nam. Ông đã đi khắp đất nước để sưu tầm mang về những món đồ gốm cổ cực kỳ có giá trị khiến người khác nhìn vào ngưỡng mộ với bộ sưu tập đồ gốm cổ của ông. Năm 2014, ông được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục Bộ sưu tập Lộc bình xưa có số lượng nhiều nhất với hơn 5.000 chiếc. Ông Tường xem những món đồ gốm như những bảo vật của mình

Ảnh 1. Một trong những đồ gốm cực có giá trị của ông là cặp ngựa gốm sứ Biên Hoà thế kỷ 18

Thời gian đầu, Đinh Công Tường từng làm công việc thu gom rác, làm bồi bàn, buôn hoa quả,... để mưu sinh, rồi cơ duyên đưa ông tới nghề trồng và chăm sóc cây cảnh, bon-sai. Được tí vốn, ông quyết định đầu tư vào công ty buôn dây cáp với đám bạn chí cốt. Có được ít lời, năm 24 tuổi, ông bắt đầu đi khắp các vùng quê Việt Nam từ Bắc chí Nam nhằm “gom” gốm sứ cổ về nhà mình để thỏa mơ ước.
Với tính cách phóng khoáng, vui vẻ, dễ gần, Đinh Công Tường nhanh chóng “lấn” sâu vào thú chơi cổ vật và nổi tiếng là tay săn đồ cổ “cao tay”. Đi tới đâu là ông kết bạn tới đó, từ bậc vương giả cho tới người lao động nghèo, ai ai cũng quý mến ông. Chính là nhờ cách giao tiếp thân thiện này nên nhiều khi vô tình ông “vớ” được những món hàng cổ, độc và hiếm ít ai có được. Ông chia sẻ: “Đó là “cái duyên” cần thiết để sống với nghề sưu tầm cổ vật, bởi nếu không có duyên, đôi khi gặp những món đồ mình yêu thích, có tiền nhưng chưa chắc người ta chịu bán. Nếu có duyên, đôi khi còn được người ta tặng không…”. Và để có được những cổ vật gốm sứ yêu thích, nhiều khi ông phải “rình rập”, thuyết phục chủ nhân của nó mất vài năm mới mua được.

Mỗi lần có dịp đi nước ngoài, ông đều bỏ thời gian truy tìm cổ vật để làm giàu cho “kho tàng” của mình. Thế nên, bộ sưu tập gốm sứ cổ của ông rất đa dạng và phong phú. Ngoài ra, nhiều người nghe tiếng ông “nghiền” cổ vật gốm sứ nên thường tự tay mang đồ cổ tới tận nhà ông để bán được giá cao hơn. Con đường sưu tập gốm sứ cổ của ông Tường chỉ có vậy mà giờ đây, số lượng cổ vật của ông đã “vượt ngưỡng” sức chứa của ngôi nhà 3 tầng (600m2), một căn chòi và một căn nhà gỗ trong khu vườn nhà ông. Cổ vật nhiều đến nỗi chúng nằm lăn lóc khắp gầm giường, gầm tủ, góc nhà của ông. Vì thế, ngôi nhà của ông giờ trở thành “bảo tàng” gốm sứ cổ để người yêu cổ vật tới thưởng lãm...

Ảnh 2. Nhà sưu tầm Đinh Công Tường với kho đồ gốm của mình

Những cổ vật gốm sứ của ông Tường đều thuộc hàng “độc, lạ” ở Việt Nam bao gồm đủ các loại hình như: tô, chén, đĩa, ché, lộc bình, chum, thìa, chân đèn... có xuất xứ từ Trung Hoa, Singapo, Pháp, Nhật Bản, Hongkong... với niên đại từ thế kỷ 12 đến đầu thế kỷ 20. Trong đó phải kể đến Bộ sưu tập ấm chén và các loại lộc bình cổ quý hiếm của Nhật thế kỷ 19, một điểm nhấn trong bộ sưu tập gốm sứ của ông. Ngoài ra, ông còn có hàng chục chiếc tô một trăm chữ bùa của đời Minh, bình vuông đời Thanh cuối thế kỷ 17, bình Bát huệ tôn, bình Song tâm thế kỷ 18... Riêng gốm sứ Việt Nam, ông Tường có đầy đủ bộ gốm sứ của ba miền Bắc, Trung, Nam của các nền văn hóa Việt cổ như gốm Óc Eo, Đông Sơn, Chăm, Bát Tràng hay gốm Biên Hòa thế kỷ 18 - 19, gốm Cây Mai ở quận 5 Sài Gòn xưa... Trong đó có cặp bình độc nhất vô nhị hình thoi với nước men trắng xanh cực hiếm ông mua được ở Tiền Giang, chiếc đĩa Mai Hạc của vua triều Nguyễn được tương truyền có hai câu thơ chữ Nôm: "Nghêu ngao vui thú yên hà/ Mai là bạn cũ, hạc là người quen" của Đại Thi Hào Nguyễn Du đề tự khi ông thăm một lò sứ ở Trấn Cảnh Đức năm 1813, cùng hàng ngàn đồ ngự dụng men Lam Huế thời Nguyễn... Ngoài ra, ông còn sưu tập những cổ vật bằng đồng, bạc, đá quý, gỗ hiếm…
Ông thường hay nhắc về những tháng ngày vất vả làm lụng kiếm tiền, anh có cơ hội để gặp gỡ nhiều người trên thế giới chơi gốm và đồ cổ cổ sưu tập. Kể từ khi đi vào trồng và kinh doanh cây cảnh, Tường cũng kinh doanh dây cáp, cuộc sống khá nhiều vất vả. Vào thời gian này, ông đã đi qua rất nhiều khu vực nhiều nơi để làm từ thiện, để thu gom đồ sứ và để đáp ứng niềm đam mê.

Người dân Vĩnh Long và câu chuyện làng gốm Vĩnh Long

Dòng sông Mêkông là trầm tích phù sa, chảy ra hạ lưu với hai nhánh sông Sông Tiền, sông Hậu, hàng năm có hàng triệu mét khối trầm tích. Không những bù đắp cho những cánh đồng lúa rộng lớn, những vườn hoa quả ngon, phù sa đỏ để kết hợp với Vĩnh Long cũng góp phần tạo ra các mỏ có giá trị.

May mắn thay,nhờ vào món quà tự nhiên này của thiên nhiên, người dân Vĩnh Long đã biến nó thành làng gốm và gạch. Từ cầu Mỹ Thuận, nơi con sông Tiền chảy ra sông Cổ Chiên đến sông Măng Thít, hàng ngàn cơ sở sản xuất lò gạch gốm dọc theo sông khiến du khách đến nghĩ đến "Vương quốc Đỏ".

So với nghề sản xuất gốm, nghề gạch ngói hiện có ở Vĩnh Long từ rất sớm. Làng gạch kéo dài 30 km ở thành phố Vĩnh Long, huyện Long Hồ và huyện Măng Thít. Trong đó Nhơn Phú và xã Mỹ An, huyện Mang Thít, các cơ sở sản xuất gạch tập trung nhất. Khi ngành công nghiệp gạch truyền thống đang phát triển, có hai hoặc ba lỗ lò trong mỗi nhà. Vào mùa nóng, các cột của bầu trời khói trắng, mang đủ sống cho người Măng Thít.

Khởi đầu Làng gạch Vĩnh Long

Nghề làm gạch, ngói có mặt ở Vĩnh Long từ rất sớm, trải dài gần 30 km thuộc huyện Long Hồ và Mang Thít. Lúc bấy giờ nghề còn thịnh, mỗi nhà có đến hai ba miệng lò. Đến mùa nung các cột khói trắng ngút trời, tạo ra vô vàn sản phẩm tỏa đi khắp nơi, mang đến cuộc sống no đủ cho người dân nơi đây.
 
Ảnh 1. Đến đây bạn sẽ ngạc nhiên với sự tỉ mỉ của những người thợ tài hoa làm nên những ngôi nhà gốm bắt mắt
Thời này, Vĩnh Long tự hào về một tài nguyên đất sét đặt biệt mà không vùng nào có, hình thành nên làng nghề gạch lớn nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long. Người dân nơi đây sinh ra đã gắn bó với nghề, qua bao thế hệ họ đã đúc kết thành kỹ thuật nung điêu luyện chỉ bằng lò gạch, nhiên liệu là trấu, và một số sản vật quen thuộc với vùng lúa nước.

Tuy nhiên, qua thời gian, khi các kỹ thuật và hệ thống lò công nghệ cao được đầu tư thì các lò gạch truyền thống ở Vĩnh Long dần đi vào quên lãng. Mặc dù dọc kênh Thầy Cai ở Mang Thít hiện vẫn còn hàng trăm lò gạch nằm san sát nhau nhưng hầu như đã rêu phong, bám bụi. Nhìn từ trên cao những lò nung gạch đỏ cao vút ngày nào, nay phủ màu thời gian trông như một ngôi làng cổ tích.


Làng gốm Vĩnh Long tiếp bước

Tuy hình thành muộn, chỉ ngoài 20 năm, nhưng Làng gốm Vĩnh Long đã tiếp bước thành công làng gạch xưa kia, để tạo nên danh tiếng nhờ những đặc trưng riêng, đó là dòng gốm đỏ không men. Gốm Vĩnh Long có màu đỏ tự nhiên, sau khi nung ửng còn có lớp phấn trắng phơn phớt bên ngoài độc đáo. Gốm chắc, bền, màu sắc bắt mắt, dần được thị trường nội địa ưa chuộng, và thu hút sự quan tâm của cả thị trường quốc tế, mở đường cho xuất khẩu.

Ngày nay, Làng gốm Vĩnh Long đang trở nên sôi động với hàng chục ngàn lao động, và trở thành một trong những dòng sản phẩm mũi nhọn của tỉnh. Du khách đến thăm làng gốm, xa xa đã thấy những làn khói bốc lên. Dọc tỉnh lộ, xe tải đủ loại nằm chờ hàng, công nhân thì tất bật khuân vác. Trong xưởng, thợ in, xu, chà cần mẫn làm việc. Vài nghệ nhân ngồi đăm chiêu “vọc đất”, tìm ý tưởng cho mẫu gốm mới: một nét phá cách, một tác phẩm trừu tượng, hay một thôn nữ miệt sông nước trong trẻo và thánh thiện...

Ngoài ra, Làng gốm Vĩnh Long còn có công trình kiến trúc đặc sắc gần như có một không hai ở Việt Nam, đó là nhà gốm. Toàn bộ ngôi nhà, từ mái, hàng rào, những bức phù điêu, tường, cho đến cả những vật dụng bên trong như bàn ghế, đi-văng… đều làm hoàn toàn bằng gốm. Từng cấu kiện được nung riêng, chuyển đổi màu để nhấn mạnh nét đậm, nhạt theo ý muốn, sau đó mới lắp ráp lại khi xây dựng. Nhờ vậy, nhà gốm tưởng như dễ vỡ nhưng lại vững chắc và sắc màu hòa quyện. Đến đây bạn sẽ được chiêm ngưỡng sự tài hoa, công phu, tỉ mỉ của những người thợ gốm.

Khi đến với nơi này, bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy những bàn tay tài hoa và đầu tư tỉ mỉ của người thợ gốm. Toàn bộ ngôi nhà, từ mái nhà, hàng rào, bức tường, đến các đồ nội thất như đồ nội thất, ghế sofa ... đều được làm bằng gốm sứ. Mỗi thành phần được bắn một cách riêng biệt, chuyển đổi màu sắc để nhấn mạnh bóng tối, nhẹ nhàng như bạn muốn, sau đó lắp ráp lại khi xây dựng. Nhờ đó, ngôi nhà gốm rắn chắc với các màu sắc pha trộn nhìn trông rất bắt mắt và dân dã.


Thứ Tư, 10 tháng 5, 2017

Tìm hiểu về cái tên " gốm Sài Gòn" , " gốm Chợ Lớn

Vào thế kỷ trước, mặc dù dân số Việt và Hoa ở vùng Đồng Nai – Gia Định khá đông nhưng giai đoạn khai thác nông nghiệp các ngành nghề chưa có thể phát triển nên đa số gốm gia dụng phải nhập từ Trung Quốc… hoặc gần nhất là ở “xứ Quảng Nam”. Trong khi đó gốm Bắc Hà lại ít có điều kiện nhập vào vì chiến tranh chia cắt.

Mãi đến năm Mậu Thân (1788) chúa Nguyễn Phúc Anh tái chiếm và thiết lập Gia Định kinh (Kinh đô tạm) mới có lệnh mộ thợ chuyên môn thành lập hai đội sản xuất gạch xây thành và sản xuất chum vại công dụng.

Nghề làm gốm là nghề tiểu công nghiệp lâu đời, bắt đầu từ khi người Minh Hương  đến định cư ở xứ Đồng Nai. Hiện nay ở tỉnh Đồng Nai và Bình Dương, đa số các chủ lò gốm là do người Việt gốc Hoa, hay Minh hương đảm trách. Họ đã làm nghề này cha truyền con nối bao nhiều đời cho đến nay. Đây là hai trung tâm gốm sứ lớn nhất Nam bộ với nhiều thợ, nghệ nhân người Hoa. Vào thế kỷ 18, đã tồn tại một trung tâm gốm sứ mang tên Xóm Lò Gốm ở vùng quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (phía Chợ Lớn). Xung quanh vùng này còn có nhiều địa danh như Lò Rèn, Xóm Lò Siêu, xóm Lò Gạch .. Địa bàn xóm Lò Gốm xưa khá rộng, gồm các làng Hòa Lục (quận 8), Phú Định-Phú Lâm (quận 6), Phú Giáo-Gò Cây Mai (quận 11) trải dài đôi bờ kênh Ruột Ngựa, kênh-rạch Lò Gốm. Những con kênh này là tuyến đường giao thông chính của khu vực Chợ Lớn, dùng ghe xuồng chở hàng sản xuất đến các tỉnh miền Tây.

    Bên cạnh dòng gốm Việt còn có dòng gốm Hoa. Dòng gốm Hoa nhập vào xứ Đồng Nai – Gia Định từ lúc nào thì chưa có thể khẳng định được. Thế nhưng có một điều có thể chắc chắn là sau khi thực dân chiếm đóng và đặt chế độ cai trị ở vùng đất này thì có một số thợ gốm ở vùng Hoa Lam đến Chợ Lớn xây lò, dùng một số nguyên liệu địa phương như đất (nay còn địa danh Hồ Đất), củi, men (chỉ một số để sản xuất gốm) phục vụ thị trường địa phương, vì chỉ có cách này, theo sự tính toán của người Hoa thì dễ làm giàu vì hàng hóa dồi dào và giá thành hạ.

    Tương tự như vùng Hoa Lam, gốm Trung Quốc sản xuất tại Chợ Lớn có 3 trường phái:

    a/ Trường phái gốm chế tác theo kỹ thuật Phúc Kiến: Gốm Phúc Kiến thường có kích thước to, chế tác bằng khuôn hoặc bằng bàn xoay, tráng men một màu: vàng da bò, nâu hoặc đen. Gốm Phúc Kiến thường là: lu, hũ, kiệu, chóe, khạp, ảng, vịm, tỉn, bình xách nước, đèn. Gốm Phúc Kiến sản xuất tại Chợ Lớn dày chắc, giá thành không cao, lại ở vùng khan hiếm nguyên liệu nên không thể phát triển mạnh.
    b/ Trường phái gốm chế tác theo kỹ thuật Triều Châu: Gốm Triều Châu sản xuất tại Chợ Lớn là những loại gia dụng kích thước nhỏ, tráng men trắng lâu ngày trở màu ngà (do tràng thạch của ta không tốt) nhưng hoa văn vẽ men lam hoặc men ngũ sắc, đề tài hoa điểu, cây tùng và chim hạc, bụi chuối và bầy gà, khóm rong và con cá, nét bút thần hình. Gốm Triều Châu tạo hình bằng khuôn, ít khi dùng bàn xoay, thường là: tô, tộ, chén, đĩa, muỗng, chung, tách, khay trà, hũ, lọ, lư hương, đèn, chậu cúc, bình trà, bình cắm hoa…

Ảnh 1. Chậu được vẽ từ men màu gốm Sài Gòn xưa 

    Khoảng năm 1920 có ông Ngô Tòng hiệu Vinh Phát từ Triều Châu đến lập lò gốm cạnh chân cầu Palikao, ông là một nghệ nhân tài hoa. Sản phẩm của ông thường ký Nam Phong Xuất Phẩm hoặc Vinh Phát hay Ngô Vinh Phát. Làm ăn khấm khá một thời gian ông rời Sài Gòn lên Lái Thiêu mở lò tiếp tục sản xuất đến sau năm 1940.

    c/ Dòng gốm chế tác kỹ thuật Quảng Đông: Dòng gốm Quảng Đông sản xuất tại Chợ Lớn có 2 loại: loại gốm gia dụng chế tác bằng cách đúc khuôn có gắn thêm một số bộ phận, không tráng men hoặc tráng sơ một lớp men nâu (để chứa chất lỏng) trước khi nung chín gọi là đồ “bỏ bạch” như siêu, ấm, tay cầm. Có trường hợp người thợ gốm làm tượng thờ hoàn toàn theo lối thủ công, hoặc chỉ tráng sơ một lớp men ở chân đế. Tượng này được nung chín, khách hàng mua về, trước khi thờ phải tô một lớp màu hoặc một lớp vàng son, nên mới trông sơ rất khó phân biệt với tượng đất thô hoặc tượng gỗ.

    Một số lò Quảng Đông chuyên sản xuất các sản phẩm gốm tráng men độc sắc (thường là màu lục, màu đặc trưng của gốm Quảng) chế tác theo lối đúc khuôn, thỉnh thoảng có đắp thêm một vài bộ phận như: đèn, các loại thạp, gạch men, gạch hoa, con tiện, lan can, lư định, chân đèn, lư hương, ống nhổ, đôn…

    Dòng gốm Quảng Đông có mặt tại Chợ Lớn rất sớm, phát triển mạnh về chất lượng cũng như số lượng, đặc biệt nhất là gốm trang trí và gốm thuộc lĩnh vực “công nghệ miếu vũ”. Các tác phẩm sản xuất cuối thế kỷ XIX như bộ con tiện lan can tạo hình khúc tre ở nhà Lê Phát Đạt (huyện Sỹ) Long An có niên đại 1879 hoặc một số tượng Quan thánh đế quân, Thiên hậu thánh mẫu, Táo quân, Tử tiên nương nương… kể cả thần Việt như Chúa xứ Thánh mẫu, Ngũ hành nương nương… đều là các sản phẩm giống như đồ “bỏ bạch” hoặc “khắc mi lộ cốt” (tráng men mỏng không kín lòi cốt đất, giống như lấy dao cắt màng lộ xương). Những sản phẩm này không thấy ghi hiệu lò, hoặc hiệu lò ít thấy như: Nam Hưng Xương (Nam Hưng Xương điểm tố) làm quần thể tiếu tượng gắn nóc đình Thới Bình cùng nóc miếu bà Thới Bình (Cần Thơ) tượng ông Giám Trai chùa Giáng Viên. Khoảng năm Canh Thìn (1882) Nam Lợi An (Nam Lợi An diêu tạo) làm quần thể tiếu tượng gắn trên nóc Thiên hậu cung (Sa Đéc) vào năm Quang Tự thứ 11 (1885). Chất lượng các quần thể tiếu tượng này tương đối khá hơn các sản phẩm “khắc mi lộ cốt”, men dày phủ tương đối kín.

    Năm 1882, Đại úy Derbès cho biết: “Có một lò sản xuất sành Céramiques ở phía bắc đồn Cây Mai, đường vào đồng Mả Ngụy, mới lập chừng một năm rưỡi nay”. Lò gốm mà Derbès nhắc đến là lò Mai Sơn và lò Đồng Hòa. Hai lò gốm này ở bên cạnh nhau, đầu tiên hai lò gốm này cũng sản xuất đồ “bỏ bạch” hoặc đồ “khắc mi lộ cốt”, sản phẩm nổi tiếng nhất của lò Đồng Hòa là siêu và tay cầm. Nhưng sau đó, tức khoảng đầu thế kỷ XX thì các lò gốm Quảng ở Chợ Lớn cải tiến kỹ thuật chạy theo “công nghệ miếu vũ”. Lò Mai Sơn và lò Đồng Hòa chuyên sản xuất chậu kiểng kích thước to, đặt trên đôn, đắp nổi các hoa văn tinh tế, tráng men nhiều màu, nung rất chín. Nhờ báo Nông Cổ Mín Đàn quảng cáo, nhất là sản phẩm gốm của 2 lò này được giải thưởng tại các hội chợ triển lãm nên dân Nam Bộ gọi là “Chậu Cây Mai”, “Gốm Cây Mai”. Hai lò Mai Sơn và Đồng Hòa sản xuất riêng lẻ, nhưng thỉnh thoảng hợp tác sản xuất. Ngày nay chúng ta thấy trên một cái chậu trồng cúc sản xuất khoảng 1915 (loại sản xuất hàng loạt). Có hai bài thơ nhưng có một bài dưới đóng dấu “Mai Sơn”, có một bài dưới đóng dấu “Đồng Hòa”. Có cái lại có dấu “Sinh” (có lẽ là tên người chủ hoặc người thợ). Những tác phẩm đồ sộ, hai lò Mai Sơn và Đồng Hòa đều hợp tác chế tạo, thường ghi “Chợ Rẫy – Mai Sơn Đồng Hòa diêu tạo” (lò gốm Mai Sơn và Đồng Hòa ở gần Chợ Rẫy tạo): như quần thể tiếu tượng gắn nóc Phước An hội quán, Đình Minh Hương Gia Thạnh, Bình An hội quán (tất cả đều ở khu vực Chợ Lớn) nhưng hội quán Bình An đã giải thể. Những sản phẩm đặc biệt này đều sản xuất trong khoảng thời gian từ năm 1900 đến năm 1910.

Ảnh 2. Gốm Cây Mai nổi tiếng như một hiện tượng của Sài Gòn – Chợ Lớn những năm cuối thế kỷ 19

    Đối thủ với lò Đồng Hòa là lò Bửu Nguyên ở đường lò Gốm (Chợ lớn). Lò gốm Bửu Nguyên lúc đầu cũng sản xuất các loại gốm gia dụng xen kẽ với các loại xây dựng và gốm trang trí. Có một số tác phẩm gốm Bửu Nguyên ghi hiệu “Bửu Nguyên”; “Đề Ngạn Bửu Nguyên diêu tạo” hoặc “Nam kỳ Đề Ngạn”, Lò Gốm Nhai, “Bửu Nguyên diêu tạo” (Chợ Lớn, lò Bửu Nguyên tạo hoặc Nam Kỳ, Chợ Lớn, đường Lò Gốm, lò Bửu Nguyên tạo). Khoảng đầu thế kỷ XX lò Bửu Nguyên sản xuất các loại tượng thờ chế tác sinh động, trên nếp áo đắp nổi từng chi tiết, tráng men nhiều màu đặc biệt chỉ chừa khuôn mặt, hai tay và hai chân. Các tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu tại An Lạc Cung (Trà Ôn), bộ tượng Di Đà Tam tôn và tượng Giám Trai sứ giả (niên đại At Tị 1905) tại chùa Phước Lưu (Trảng Bàng) là những tác phẩm rất đẹp. Lò Bửu Nguyên cũng sản xuất quần thể tiếu tượng gắn trên nóc đền miếu như bộ tiếu tượng tại Quảng Triệu hội quán (Vĩnh Long) khoảng năm Mậu Tuất 1898 bộ tượng tại Thiên hậu Cung (chùa bà chợ Đũi) khoảng năm Tân Hợi (1911) và tại Quảng Triệu hội quán (chùa bà Cầu Muối) vào năm Canh Thân (1920). Vào năm Mậu Thân (1908) lúc trùng tu Tuệ Thành Hội quán (chùa bà Chợ Lớn) chủ nhân hai lò Bửu Nguyên và Đồng Hòa thi đua thực hiện bộ tiếu tượng gắn trên nóc đền. Dưới sự chỉ đạo, cả hai chủ nhân cùng quê, cùng học một kỹ thuật, cùng thực hiện một công trình có thể gọi là “tài nghệ bất phân thắng bại”.

Gốm của vùng Sài Gòn - Gia Định - Đồng Nai trong thế kỷ 18 và 19 nổi tiếng về lịch sử độc đáo và nổi tiếng của nó mà nhiều nhà khảo cổ học và sử gia gọi là đồ gốm Mai Mai (được biết đến qua gốm cổ ở đồi Cây Mai Và khu vực Cây Mai, Chợ Lớn hiện nay được xếp vào Biên Hòa, Sài Gòn. Hiện nay, chỉ còn lại lò gốm Hưng Lợi nằm ở bản Hoà Lục (phường 16, quận 8), gần thôn Phù Đình, ở rìa Kênh Bò , Trong một ngôi làng Lò Gốm cũ. Cuộc khai quật năm 1997-1998 đã tìm thấy những tàn tích của ba lò gốm, trên một gò đất đầy những đồ gốm thuộc loại lu, siêu, chậu .. (15) Hôm nay nơi Tiếp tục truyền thống Gốm cổ truyền của Hòa hiện rõ ràng nhất trong lò gốm ở Biên Hòa hoặc tại quận 9, thành phố Hồ Chí Minh (trước đây là Thủ Đức, gần Công viên Văn hoá Quốc gia đang xây dựng) và một số cơ sở Sản xuất gốm gia đình nhỏ tại khu vực Lái Thiêu.

    Trước khi thực dân xâm lược, địa danh Sài Gòn chính là Chợ Lớn, địa danh Bến Nghé chính là địa danh Sài Gòn ngày nay. Dòng gốm Việt xuất phát từ xứ Quảng Nam vào thời Nguyễn có thể gọi là gốm Sài Gòn. Nhưng 3 trường phái gốm Hoa phát triển trong thời Pháp thuộc nếu gọi là gốm Sài Gòn thì phi lịch sử. Còn nếu căn cứ vào dân gian cứ gọi là gốm Cây Mai thì cũng không hợp lý vì đây chỉ là cách gọi tiêu biểu. Theo tôi gốm của người Hoa sản xuất ở Chợ Lớn thì cứ gọi là Gốm Chợ Lớn.

Sự xuống cấp đáng báo động tại khu di tích lò gốm Hưng Lợi


I – Tìm hiểu sơ nét về lò gốm Hưng Lợi
Lò gốm Hưng Lợi (khu phố 5, phường 16, quận 8) được công nhận là di tích lịch sử quốc gia. Do sự thiếu quan tâm bảo tồn, bảo tồn di tích này đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Thậm chí Trần Văn Tuấn, một nhân viên văn hoá và xã hội tại phường 16, quận 8, cũng mất phương hướng khi dẫn chúng tôi tới khu di tích này.
Năm 1999, sau khi lò gốm Hưng Lợi được công nhận là di tích lịch sử quốc gia, chính quyền địa phương đã xây dựng một bức tường lưới và một cửa khẩu với dấu ấn của Khu di tích Gốm Hưng Lợi.
Tuy nhiên, ngay sau đó, dấu hiệu đã bị bỏ do tranh chấp đất đai tại khu vực. Khi chúng tôi đến, chỉ có một tàn tích. Hàng ràobị gỉ sét, cổng của các di tích, cỏ, rêu bám lên chằng chịt. Thậm chí phần quan trọng nhất của di tích là lò gốm cũng sụp đổ, chìm, biến dạng.
Ngày nay ở khu vực này còn lưu lại một số địa danh có liên quan đến nghề làm gốm như Kênh- Rạch - Bến Lò Gốm, đường Lò Siêu, đường Xóm Đất ... thuộc vùng Chợ Lớn ngày nay. Phế tích Lò Gốm là một gò cao khoảng 6m theo hướng Bắc Nam, một đầu (phía Bắc) cách kênh Ruột Ngựa khoảng 50m, đầu phía Nam có một con rạch nhỏ chảy ra kênh Lò Gốm - con rạch này cách đây khoảng 10 năm đã bị cạn, nay chỉ còn dấu vết từng đoạn rạch ngắn. Hai đầu của gò đất đã bị đào phá chỉ còn lại đoạn giữa dài khoảng 40m, chân gò rộng 30m. Cấu tạo gò chính là phần còn lại của những lò gốm với đống phế phẩm và phế liệu dày đặc hai bên sườn gò. Đợt khảo sát vào tháng 4/1997 đã cho biết đây là di tích khá lớn và khá nguyên vẹn, diện phân bố của nó lên đến 10.000m2. Chưa kể những ao nhỏ - dấu tích của việc khai thác nguyên liệu làm gốm - phân bố rải rác khắp làng Hòa Lục và cả làng Phú Định bên kia kênh Ruột Ngựa.
Đợt khai quật cuối năm 1997 và đầu năm 1998 cho biết khu lò gốm Hưng Lợi có cấu trúc khá phức tạp, do có 3 giai đoạn sản xuất gồm 3 lò gốm nối tiếp và chồng lên nhau. Trên đại thể, có thể nhận thấy: cả ba lò tuy sớm muộn khác nhau nhưng đều cùng một kiểu lò gốm nối tiếp và chồng lên nhau nhưng đều cùng một kiểu lò ống (lò tàu) thông suốt từ bầu lửa đến ống khói. Độ dốc của nền cao dần từ Bắc lên Nam, bề ngang của nền ở phía Nam hẹp hơn phía Bắc đôi chút (khoảng 5-7cm), dấu tích này đã cho biết vị trí bầu lửa của cả ba lò ở phía Bắc (là phía kênh Ruột Ngựa) và cửa thoát khói (ống khói) ở phía Nam. Cửa lò đều tìm thấy ở phía Đông, là phía phân bố chính của khu lò. Như vậy cửa ra - vào sản phẩm ở cùng một phía, và có thể ở cả cửa hậu.

Ngoài cấu trúc chính là lò nung, các lò ống còn có các đoạn tường bao gia cố vách lò, đặc biệt gia cố đoạn vách gần vách hậu, nơi chịu nhiệt độ cao nhất. Tường bao thường bằng gạch xây vách lò, hoặc gạch bịt cửa hậu bị hư hỏng. Các viên gạch xếp chồng lên nhau, hơi nghiên ôm lấy chân vách lò. Có thể kè thêm một số lu hay khạp bị hỏng, hoặc xếp lu, khạp lên trên tường gạch, hoặc xây gạch lên trên hàng lu, khạp .... Tường bao có thể có nhiều lớp, tuỳ độ lan rộng của phế phẩm lò mà người ta xây tường bao chặn lại để tạo độ vững chắc cho lò.
 
Ảnh 1. Một phần của khu di tích đã dần như bị bít lối đi
II. Khảo tả di tích:
Di tích là một gò đất cao khoảng 5 mét, chân gò theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Trên gò có nhiều cây hoang dại như hai cây keo già, me… chung quang gò là vùng đất trũng có nhiều ao nhỏ. Quan sát đất đắp bờ bao nhận thấy là loại đất sét xám xịt mịn.
Hiện nay phía đầu Nam bị sụp, về phía Bắc của di tích đã bị dân san phẳng làm khu nghĩa địa nhỏ. Sau khi sửa sang lại vách và nền lò ở đầu phái Bắc, di tích được mô tả như sau:
Phát quật mặt bằng phái bắc gò làm xuất lộ một phần nền lò, một phần vách lò hai phía Tây, Đông và lớp hợp chất nghi là nóc lò (?). Đào năm hố thám sát hai bên sườn gò; thu lượm và phân loại được một số sản phẩm, gồm 3 chất liệu chính: sành (lu, khạp…), gốm xốp men nâu (hộp, siêu, tay cầm, chậu, vịm…), gốm bán sứ (chén, dĩa, cốc, ly, muỗng…) một số khuôn và hiện vật kỹ thuật…. Nhận định bước đầu: cấu trúc lò là ống dài thông suốt từ bầu lửa đến ống khói. Nền dốc năm độ từ Bắc (phía kênh Ruột Ngựa) lên phía. Dấu tích bầu lửa đã mất do việc xây mồ mả. Ống khói phía Nam. Cửa lò có thể ở cả hai bên.

III. Các hiện vật của di tích:
Có thể kể ra một số loại sản phẩm đặc trưng của khu lò Hưng Lợi:
Đầu tiên là loại lu (chum) lớn nhất, chất liệu sành nâu, dáng thuôn vào đáy hay bầu tròn, còn được gọi là lu 3 đôi hay lu 5 đôi nước (mỗi đôi nước 40 lít). Lu được tạo hình bằng phương pháp dải cuộn, sau đó dùng bàn dập sửa sang lại cho gắn kết và vỗ cho mỏng đều. Xung quanh các vách lò có rất nhiều lu hư hỏng chứa đầy mảnh sản phẩm hoặc đất, chất thành hàng dài hay chồng lên nhau để gia cố vách lò.

Chiếm tỷ lệ lớn nhất là các loại sản phẩm gốm và sành không men hoặc có men nâu hay men vàng (men da lươn, da bò). Về loại hình, chủ yếu là "đồ bỏ bạch" như siêu, ơ (nồi có tay cầm) với nhiều kích cỡ, các loại hộp men nâu. Trên nắp ơ, đáy siêu, đáy hay nắp hộp có in nổi ba chữ Hán trong khung hình bầu dục "Hưng Lợi Diêu" (lò Hưng Lợi). Ngoài ra còn có các kiểu khạp, hũ, chậu, vịm, chậu bông ... Đặc biệt trong lò này xuất hiện loại chậu bông (tròn hay lục giác) kích thước nhỏ, in hoa văn nổi men nâu, vàng (bông mai, cúc). Thân phủ men xanh đồng hay xanh lam, màu men đặc trưng của gốm cổ Sài Gòn.

Loại sản phẩm thứ ba là lại gốm men xanh trắng và men nhiều màu, gồm có tô, đĩa, bát, cốc. ly đèn, lư hương, ấm trà, bình rượu, thìa muôi ... Hoa văn xanh hoặc hoa văn nhiều màu (tím, đỏ, xanh lá cây, nâu, vàng), một số sản phẩm có những chữ Hán màu đen. Loại sản phẩm này không nhiều, nhưng vẫn có sản phẩm đặc trưng là tô con gà, thìa cá vàng in chìm hai chữ Hán "Kim Ngọc", cốc cao có 3 ngấn. Giai đoạn này phổ biến loại chậu kiểng lớn tạo dáng bằng khuôn in hai mang. Hoa văn in nổi là những đường hồi văn và các khung trang trí các mô típ phổ biến như Tùng Lộc, Mai Điểu, Bát Tiên ... Màu men phổ biến của chậu kiểng vẫn là xanh đồng, xanh lam, xanh lá cây ... Do sản phẩm chính là tô, bát, nên lò này còn được gọi là Lò Men (các hiện vật và hình ảnh khai quật được trưng bày tại Bảo tàng lịch sử TPHCM).

Ảnh 2. Khu di tích sắp bị lãng quên

Xung quanh khu di tích có nhiều ao nhỏ là dấu tích việc khai thác nguyên liệu làm gốm. Gần đây khu vực này vẫn còn một số lò gạch nhỏ. Bên kia làng Phú Định có vài gia đình làm ông lò (bếp lò) bằng đất sét đào ven kênh Ruột Ngựa trộn với tro (do trấu hun thành). Số lượng rất ít vì loại bếp lò này hiện chỉ tiêu thụ ở vùng ngoại thành hoặc ở miền Tây.
 Và hiện nay, khu lò gốm này mặc dù đã được coi là khu di tích lịch sử quốc gia nhưng đã bị xuống cấp nghiêm trọng, hiện nay đang ở giữa môi trường không sạch. Một số công trình bất hợp pháp tại khu vực này phản ánh sự quản lý và bỏ bê của cơ quan chức năng.

Cách đây không lâu, các nhà khảo cổ học và sinh viên trong và ngoài nước đến thăm di tích thường xuyên để nghiên cứu và thực hiện nghiên cứu thực địa. Các nhà chức trách nói rằng rất khó để di chuyển cư dân ra khỏi một số địa điểm vì họ đã chiếm chỗ này trước khi các di tích được công nhận là di tích quốc gia hay thành phố.

TÌM HIỂU VỀ XÓM LÒ GỐM SÀI GÒN CŨ CỦA MIỀN NAM ( P2)

Từ đầu thế kỷ 20, khu vực đô thị hóa Sài Gòn - Chợ Lớn khá nhanh, làng Lò Gốm nơi đây dần thua kém so với gốm Biên Hòa và Lái Thiêu .
Năm 1903, Trường Mỹ thuật Biên Hòa được thành lập (nay là Trường Cao đẳng Mỹ thuật và Trang trí Đồng Nai). Ban đầu gốm sứ Biên Hòa được lát bằng men Pháp, nhưng người phương tây tráng trên đồ gốm phương Đông thì không phù hợp, vì vậy bà Marie đã thành lập một nhóm nghiên cứu men mới, chỉ có nguyên liệu thô ở những vùng như đất sét Bình Phước, đá trắng An Giang, tro rôm, tro củi, vỏ trấu và tro trấu, khảm bằng đồng, đá đỏ (đá Biên Hòa) và bột coban để lên men màu; Tạo màu sắc độc đáo cho gốm Biên Hòa: men xanh của Biên Hòa

Ảnh 1. Đĩa gốm sứ Lái Thiêu được khắc hình rồng 

Thời kỳ phát triển rực rỡ của gốm mỹ nghệ Biên Hòa từ năm 1923 đến đầu những năm 1960. Nhiều lần, gốm sứ Biên Hòa trưng bày tại triển lãm quốc tế về nghệ thuật trang trí năm 1925, 1932, 1934, 1938, 1942 tại Paris (Pháp), Nhật Bản, Indonesia, Hà Nội và Sài Gòn, hội chợ đã rất thành công và các nhà tổ chức đã trao vàng Huy chương, bằng khen

Xóm lò gốm Sài Gòn xưa
Vốn là dòng gốm bình dị và phổ biến, nên từ dân thường đến nhà giàu có đều mua và dùng các loại sản phẩm gốm Nam bộ, từ gốm gia dụng đến đồ thờ cúng trong đình chùa, gốm trang trí kiến trúc...
Trên bản đồ Phủ Gia Định do Trần Văn Học vẽ năm 1815 có ghi địa danh "xóm Lò Gốm" - một trong những làng nghề nổi tiếng của Sài Gòn xưa, gồm các làng cổ Phú Giáo - gò Cây Mai, làng Phú Định - Phú Lâm, làng Hòa Lục... mà ngày nay thuộc các quận 6, 8 và 11. Khu vực này bây giờ vẫn còn kênh - rạch Lò Gốm và những địa danh liên quan đến nghề làm gốm như (đường) Lò Siêu, (đường) Xóm Đất, cầu Lò Chén...

Tên Lò Gốm được ghi trong Gia Định thành thông chí (1820): "Từ năm 1772 con kênh Ruột Ngựa được đào để nối liền từ Sa Giang ra phía bắc đến Lò Gốm". Như vậy, khu lò gốm chắc chắn đã khởi lập trước năm này. Dấu tích xóm Lò Gốm còn lại là khu vực gò Cây Mai (quận 11) và di tích lò gốm cổ Hưng Lợi (phường 16, quận 8).

Khai quật lò Hưng Lợi cho biết sản phẩm chủ yếu là đồ gia dụng: lu chứa nước (nên còn có tên là Lò Lu), các loại hũ men nâu men vàng, nhiều kiểu chậu, vịm (một loại chậu nhỏ), chậu bông... kích thước khác nhau.

Khoảng từ giữa thế kỷ 19, khu lò này sản xuất những sản phẩm in tên "Hưng Lợi diêu" (Lò Hưng Lợi) gồm các loại đồ "bỏ bạch" (bên ngoài không tráng men) như nồi có nắp và tay cầm (nồi lẩu), siêu nấu nước... Bên trong nồi và siêu có tráng men nâu chống thấm. Chậu bông bằng sành hình tròn hoặc hình lục giác, men nhiều màu, trang trí ô hoa văn bát tiên, tùng lộc, mai điểu...

Từ đầu thế kỷ 20 sản xuất các loại bát, đĩa, ấm, ly uống trà, chai, muỗng, bình rượu, lư hương, thố có nắp... men trắng vẽ men lam. Ngoài ra còn sản xuất loại chai gốm men trắng giống như chai thủy tinh. Sản phẩm lò Hưng Lợi được nặn tay, in khuôn, kết hợp bàn xoay, hoa văn cũng được in khuôn, đắp nổi, chạm khắc, sau đó phủ hoặc tô men nhiều màu, thường là màu xanh đồng, xanh lam, nâu hay đỏ.
Dấu tích khu lò gốm Cây Mai (nằm ở sau chùa Cây Mai) nay vẫn còn. Lò này làm các loại đồ gốm thông dụng kích cỡ lớn, sản phẩm trang trí mỹ thuật, tượng đất nung và đồ sành men màu. Các sản phẩm độc đáo và đặc trưng của gốm Cây Mai sản xuất vào cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20 là gốm men nhiều màu như trắng, xanh lam, xanh lục, nâu, vàng... gồm nhiều kiểu tô, chén, đĩa, muỗng, bình, cốc, đôn, chậu kiểng, lư hương, bát nhang, tượng thờ; gốm trang trí kiến trúc như long (rồng), voi, ngựa và các quần thể tiểu tượng.
 
Ảnh 2. Bình lọc nước của gốm Cây Mai nổi tiếng ngày xưa
Trên nhiều đồ gốm Sài Gòn còn ghi năm sản xuất và tên điếm (tiệm), diêu (lò) như: tượng Giám Trai ở chùa Giác Viên (quận 11), góc dưới bên phải có ghi "Đề ngạn, Nam Hưng Xương, Điếm Tố", "Canh Thìn Trọng Đông Cát Đán Lập" (1880).

Ở miếu Thiên Hậu (Quảng Triệu hội quán - quận 1) trên quần thể tiếu tượng gốm ở phần sân miếu có những bảng gốm chữ nổi "Lương Mỹ Ngọc điếm tạo" (tiệm Lương Mỹ Ngọc tạo), "Quang Tự Thập Tam Niên" (1887) và "Thạch Loan Mỹ Ngọc tạo" (lò Mỹ Ngọc ở Thạch Loan tạo), "Quang Tự Đinh Hợi Tuế (1887). Cũng ngay trên quần thể tiếu tượng này còn có những bảng gốm khác ghi "Đề Ngạn Bửu Nguyên Diêu tạo" (lò Bửu Nguyên ở Đề Ngạn làm)...

Chữ Diêu còn gặp ở một số di tích khác như ở đình Minh Hương Gia Thạnh (quận 5), trên quần thể tiếu tượng bằng gốm có ghi "Mai Sơn, Đồng Hòa Diêu Tạo" (lò Đồng Hòa - Mai Sơn tạo)...

Hiện nay, sản phẩm gốm Cây Mai vẫn còn được lưu giữ trong dân gian, ở các đình miếu, hội quán Nam bộ với các sản phẩm dân dụng như: ơ, siêu, bát, bình, lu, hũ, thống có nắp, khạp có nắp, chậu tròn, chóe có quai, đôn tròn, đôn lục giác, lân, gạch trang trí hình vuông...
Những dòng men màu bình dị

Từ khoảng đầu thế kỷ 20, vùng Sài Gòn - Chợ Lớn đô thị hóa khá nhanh, khu vực xóm Lò Gốm mất dần ưu thế so với vùng gốm Biên Hòa, Lái Thiêu. Trường Mỹ nghệ Biên Hòa thành lập vào năm 1903 đã tập hợp được nhiều nghệ nhân làm gốm. Dần dần gốm Biên Hòa trở nên nổi tiếng.

Gốm Biên Hòa thiên về trang trí hoa văn dày đặc, bao quanh sản phẩm bằng phương pháp vẽ nét chìm hoặc lấy nét chìm kết hợp với trổ thủng để tạo hoa văn, sau đó tô men, không phân biệt giữa men và màu ve. Hoa văn trang trí hình rồng hay cúc hóa long, hoa mai... khá đặc sắc.

Sản phẩm gốm Biên Hòa đa dạng bao gồm bình bông, hũ, lọ, chóe, chậu, đôn, đôn voi, bộ bàn ghế tròn, đèn lồng, đĩa trang trí, tượng voi, tượng lân, tượng người... Loại chóe men đen hoặc men nâu hoa văn khắc chìm sản xuất ở Biên Hòa còn cung cấp cho nhiều khu vực ở Tây nguyên. Một loại sản phẩm gốm Biên Hòa vẫn được sản xuất nhiều là các loại lu đựng nước bằng đất nung không men. Cho đến nửa sau thế kỷ 20 gốm mỹ nghệ Biên Hòa vẫn được xuất khẩu đi Liên Xô và nhiều nước Đông Âu.

Gốm ở Sài Gòn đã được thừa kế, hấp thụ từ đồ gốm chính như đào (men màu, Quảng Đông), đào đen (men đen, Phước Kiến), đào trắng (men trắng, Triều Châu). Trong số đó, gốm Cây Mai được làm bằng men màu , trong khi gốm Sài Gòn được làm từ men trắng.

Theo khái niệm được nêu trong cuốn sách “ Gốm Sài Gòn”, đồ gốm Sài Gòn có một số đặc điểm chính. Thứ nhất, nó thuộc về các chạm khắc trắng, với cao lanh nhập khẩu từ bên ngoài sản xuất, bởi vì Sài Gòn không có cao lanh. Phối hợp với biển xanh, gốm sứ Sài Gòn là màu trắng chính.

Thứ Bảy, 6 tháng 5, 2017

Cùng tìm hiểu xóm lò gốm Sài Gòn cũ của miền Nam

Quá trình hình thành xòm lò gốm của ông cha ta  ở miền Nam từ thế kỷ XVII cũng là quá trình hình thành các dòng sản phẩm Gốm Nam - là sản xuất gốm trong khu vực lò gốm cổ ở Sài Gòn, bao gồm cây Ochna đồ gốm. Gốm cổ Sài Gòn; Gốm sứ Biên Hòa (Đồng Nai) và gốm Lái Thiêu (Sông Bé - Bình Dương) ...
Là trung tâm của lưu vực Đồng nai rộng lớn và trù phú, Sài Gòn – Bến Nghé ngay từ khi mới hình thành đã sớm mang dáng vẻ của một đô thị sôi động bởi hoạt động thương nghiệp và sản xuất của nhiều ngành nghề thủ công. Khoảng cuối TK XVIII tại đây đã có 62 ty thợ do nhà nước quản lý và hàng trăm phường thợ trong dân gian. Nhiều ngành nghề tập trung trong các khu vực nhất định để rồi xuất hiện những địa danh như  Xóm Chiếu, xóm Cốm, xóm Lò Rèn, xóm Dầu, xóm Chỉ, xóm Vôi, xóm Bột… riêng xóm Lò Gốm  vẫn còn để lại một số địa danh như đường Lò Gốm - đường Lò Siêu - đường Xóm đất – bến Lò gốm – rạch Lò gốm – kênh Lò gốm – khu lò lu… thuộc khu vực quận 6,8,11 ngày nay. Sử liệu sớm nhất nói đến nghề làm gốm ở Sài Gòn xưa là sách “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức viết khoảng năm 1820. Đoạn viết về Mã trường Giang-kênh Ruột Ngựa như sau: “Nguyên xưa từ cửa Rạch Cát ra phía Bắc đến Lò Gốm có một đường nước đọng móng trâu, ghe thuyền không đi lại được.Mùa thu năm Nhâm Thìn (1772) cho đào con kênh thẳng như ruột ngựa nên mới đặt ra tên ấy…”. Kênh Ruột Ngựa đã giúp cho ghe thuyền đi lại giữa Sài Gòn với miền Tây thêm thuận lợi. Bản đồ Thành Gia Định do Trần Văn Học vẽ từ cuối năm 1815 đã có ghi địa danh Xóm Lò Gốm ở khoảng làng Phú Lâm- Phú Định (ngày nay là khu vực quận 6 tiếp giáp quận 8). Bài “Phú cổ Gia Định phong cảnh vịnh” sáng tác khoảng đầu TK XIX miêu tả “Lạ lùng xóm Lò Gốm, chân vò vò bàn cổ xây trời…”. Trong 62 ty thợ tập trung tại Sài Gòn làm việc cho nhà nước vào cuối TKXVIII đã có các ty thợ Lò chum, ngói mộc, gạch mộc, lò gạch…
 
Ảnh 1. Một góc trưng bày của sản phẩm gốm Cây Mai ngày xưa
Một vài tài liệu của Pháp, tuy tản mạn và có phần phiến diện, cũng phản ánh về việc sản xuất gốm ở Chợ Lớn vào cuối TK XIX: Tại Chợ Lớn có khoảng 30 lò gốm tập trung ở Hòa Lục, Phú Định, Cây Mai… vùng Chợ Lớn sản xuất lu và các đồ gốm thông dụng như chậu vịm, siêu ấm, nồi trách, hũ khạp, cà ràng… vùng Cây Mai có một lò sản xuất đồ sành. Các lò này lấy nguyên liệu tại chỗ, tuỳ chất đất mà sản xuất thành các loại sản phẩm. Mỗi lò gốm hàng năm có thể sản xuất hàng trăm ngàn sản phẩm. Đến đầu TK XX vẫn còn nhiều lò gốm nổi tiếng như lò Tín Di Hưng, Quảng Di Thành, Hiệp Hưng, Bửu Nguyên, Đồng Hòa, các lò chuyên sản xuất lu, khạp và đồ gia dụng…Theo Vương Hồng Sển thì : “Từ khi lấp rạch Chợ Lớn thì rạch Lò gốm, kinh Vòng Thành không thông thương và lò gốm chỉ còn sót lại cái tên trơn và không sản xuất đồ gốm nữa…”.

Từ những tư liệu lịch sử trên và qua khảo sát thực tế có thể nhận biết địa bàn xóm Lò Gốm xưa khá rộng, gồm các làng Hòa Lục (quận 8), Phú Định-Phú Lâm (quận 6), Phú Giáo-Gò Cây Mai (quận 11) trải dài đôi bờ kênh Ruột Ngựa, kênh-rạch Lò Gốm. Những con kênh này là tuyến đường giao thông chính của khu vực Sài Gòn cũ-nay là Chợ Lớn: một vùng thấp trũng chằng chịt kênh rạch lớn nhỏ, mọi sự đi lại đều dùng ghe xuồng. Kênh Ruột Ngựa và rạch Lò Gốm còn nối liền rạch Chợ Lớn với rạch Cát (Sa Giang)và rạch Bến Nghé. Từ ngã ba “Nhà Bè nước chảy chia hai” xuồng ghe theo rạch Bến Nghé và kênh Tàu Hũ qua kênh Ruột Ngựa ra sông Cát về miền Tây. Ngày nay rạch Chợ Lớn không còn nữa, nhiều đoạn rạch Lò Gốm biến mất – nhất là khu vực Gò Cây Mai hầu như không còn dấu tích con đường thuỷ quan trọng này. Kênh Ruột Ngựa không còn thẳng như tên gọi do bị bồi lấp lấn chiếm hai bên bờ. Kênh Lò Gốm ngày càng cạn hẹp dù đã nạo vét nhiều lần… Tuy nhiên ghe xuồng vẫn theo con nước mà xuôi ngược, dù nơi đây đã phát triển hệ thống đường bộ chằng chịt như mạng nhện, dù các làng nghề-phố nghề ven kênh rạch không còn nữa… đủ biết trước đây trước đây tuyến đường thủy này quan trọng như thế nào.

Dấu tích vật chất của xóm Lò Gốm ngày xưa nay chỉ còn lại di tích lò gốm Hưng Lợi thuộc làng Hòa Lục (phường 16 quận 8), nằm ven kênh Ruột Ngựa. Đối diện là làng Phú Định cách đây vài năm còn một số gia đình làm nghề “nặn ông lò” – bếp gốm. Di tích là gò lớn chứa đầy mảnh gốm của các loại lu, khạp, siêu, chậu... Cuộc khai quật năm 1997-1998 đã tìm thấy tại đây phế tích 3 lò gốm kiểu lò ống (lò Tàu) là loại lò thông từ bầu lửa đến ống khói, dốc và hẹp, nền lò được gia cố nhiều lần, thành lò đắp dày bằng phế phẩm. Các đoạn vách lò còn lại được xây bằng loại gạch lớn chảy men dày, lòng lò chứa đầy mảnh sản phẩm mà qua đo có thể nhận biết một số loại sản phẩm đặc trưng của lò Hưng Lợi. Ba lò gốm này sản xuất nối tiếp nhau trong một thời gian khá dài nhưng có thể không liên tục vì  lò gốm của giai đoạn sau được xây trên một phần lò cũ hoặc sửa chữa gia cố lại lò cũ.

Giai đoạn đầu khu lò này chủ yếu sản xuất lu chứa nước bằng chất liệu sành nâu, dáng thuôn vào đáy hoặc bầu tròn, kích thước khá lớn: thường được gọi là “lu 3 đôi” hay “lu 5 đôi” ( mỗi đôi nước-2 thùng- khoảng 40 lít nước). Lu gốm làm bằng phương pháp nặn tay bằng “dải cuộn kết hợp bàn dập, bàn xoa” nên độ dày và dáng tròn đều, bên trong vành miệng lu còn dấu ngón tay để lại khi dùng tay vuốt  cho vành miệng tròn và gắn chặt vào thân lu. Trong số hàng ngàn mảnh lu thống kê được thì mảnh nắp chiếm đến gần 2/3, cho biết nắp được sản xuất nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu vì nắp hay bị vỡ hỏng khi sử dụng. Do mảnh lu, nắp lu nhiều nên khu lò này còn được gọi là Lò Lu. Lò sản xuất lu đựng nước có niên đại sớm nhất ở khu lò này, khoảng nửa sau thế kỷ XVIII. Mảnh phế phẩm của lò lu còn phân bố trên một diện rất rộng xung quanh lò, đào sâu xuống hơn 1m vẫn gặp mảnh lu gốm.

Chiếm tỷ lệ lớn nhất là mảnh các loại sản phẩm gốm và sành men nâu, men vàng hoặc không men. Đó là hũ, khạp, hộp, siêu, nồi có tay cầm… dưới đáy có in 3 chữ Hán “Hưng Lợi diêu” (lò Hưng Lợi). Bên cạnh đó là các kiểu chậu bông hình tròn hay lục giác, bát giác phủ men xanh lam hay xanh đồng – màu men đặc trưng của “Gốm Sài Gòn”. Chậu bông phần lớn có  kích thước nhỏ, hoa văn in nổi trong các ô không men là hoa mai, hoa cúc hoặc tứ quý, bát tiên… Đây là sản phẩm của giai đoạn thứ hai, giai đoạn có tên lò Hưng Lợi khoảng thế kỷ XIX. Các sản phẩm này vẫn dùng kỹ thuật nặn tay nhưng có kết hợp khuôn in,  chất liệu gốm sành nhẹ lửa, không sử dụng “bao nung” (hộp nung) nhưng phổ biến các loại “con kê”  trong việc chồng kê sản phẩm trong lò nung. Đặc trưng là “con kê” hình ống có thể chồng lên nhau tạo nhiều độ cao thấp khác nhau nhằm tận dụng thể tích lò nung.
 
 Ảnh 2. Cùng hồi tưởng lại các sản phẩm của gốm Sài Gòn xưa tại buổi triển lãm
Giai đoạn thứ 3 ở đây sản xuất gốm sứ gồm các loại chén, tô, đĩa, ly, cốc, muỗng, ấm trà, lư hương… men trắng hoa văn men xanh và men nhiều màu, chai men trắng ngà… Sản phẩm làm bằng bàn xoay, có nhiều loại bao nung cho một hay nhiều sản phẩm.  Các loại đồ gốm gia dụng tuy đơn giản về kiểu dáng nhưng có nhiều kích thước khác nhau, theo thời gian có sự khác biệt nhỏ ở chi tiết tạo dáng hay hoa văn. Một số sản phẩm có chữ Hán như Việt lợi, Kim ngọc, Chấn hoa xuất phẩm, Nhất phiến băng tâm… các chữ này không phổ biến trên sản phẩm, không có chữ Diêu kèm theo nên chắc hẳn không phải tên lò sản xuất mà rất có thể là tên của vựa gốm lớn hay cửa hàng bán đồ gốm in lên các sản phẩm mà họ đặt lò sản xuất, tức là giai đoạn này lò sản xuất theo đặt hàng cả về số lượng và từng loại sản phẩm. Tình trạng sản xuất theo sự đặt hàng của chủ hàng là người buôn bán cho biết đã có sự chuyên hóa giữa sản xuất và lưu thông hàng hóa khi nhu cầu của thị trường ngày càng đa dạng và thay đổi thường xuyên. Chất liệu làm gốm là loại đất sét tương đối trắng không có tại chỗ mà chắc phải khai thác từ  miền Đông về. Dựa vào loại hình sản phẩm và tính chất sản xuất nói trên có thể nhận thấy lò gốm này có niên đại khoảng nửa đầu thế kỷ XX.

Tuy có ba giai đoạn với những loại sản phẩm đặc trưng cho từng giai đoạn nhưng kỹ thuật sản xuất ở khu lò cổ này khá thống nhất: Cấu trúc lò gốm (loại lò ống-lò tàu), kỹ thuật tạo dáng (bàn xoay, in khuôn), hoa văn, phương pháp chồng lò và nung gốm, sản phẩm của hai giai đoạn đầu (lu, khạp, siêu, nồi có tay cầm…) đều mang đậm dấu ấn kỹ thuật làm gốm của người Hoa. Theo nhiều nhà nghiên cứu, nguồn gốc của nghề làm gốm mang tính chất sản xuất hàng hóa ở Gia Định-Đồng Nai là sự kết hợp nghề gốm của lưu dân người Việt với truyền thống kỹ thuật sản xuất gốm mà người Hoa mang vào vùng đất này trong bước đường lưu lạc kiếm sống. Từ khi được các Chúa Nguyễn cho vào định cư tại Cù Lao Phố, vùng Sài Gòn (cũ) và rải rác một số nơi khác, người Hoa sinh sống chủ yếu bằng thương nghiệp và thủ công nghiệp. Tại Cù Lao Phố trên sông Đồng Nai (nay thuộc thành phố Biên Hoà) cũng có Rạch Lò Gốm, bến Miểng Sành mà qua khảo sát, các loại sản phẩm hầu như không khác biệt với sản phẩm ở khu lò gốm cổ Hưng Lợi. Các phường thợ làm gốm của người Hoa thường gồm những người “đồng hương” và chuyên sản xuất một vài loại sản phẩm: người Hẹ chuyên làm lu, khạp, hũ men nâu và men vàng ( men da lươn, da bò); người Tiều (Triều châu) chuyên làm đồ “bỏ bạch” (không men) như siêu, nồi có tay cầm…; người Quảng (Đông) chuyên làm chén, đĩa có men trắng hay men nhiều màu… Hiện nay truyền thống kỹ thuật này vẫn phổ biến ở những lò lu, lò gốm ở khu vực Quận 9-TP.HCM ( như lò Long Trường), ở Tân Vạn-TP Biên Hòa và Lái Thiệu-Bình Dương… dù các chủ lò có thể không phải là người Hoa. Cần nói thêm rằng, cho đến nay một số dân tộc ở miền Nam ( người Chăm, người Khmer…) vẫn bảo lưu kỹ thuật làm gốm cổ truyền Đông Nam Á là nặn tay, không dùng bàn xoay và nung gốm ngoài trời, sản phẩm là gốm đất nung ít có sự thay đổi về kiểu dáng, số lượng không nhiều, vì vậy sản xuất chỉ mang tính chất tự cung tự cấp.

Đối với nghề làm gốm muốn tồn tại và phát triển thì phải có vị trí thuận lợi : là nơi có hoặc gần nguồn nguyên liệu, có hệ thống đường thuỷ tiện cho việc chuyên chở hàng hóa đi nhiều nơi, gần trung tâm thương nghiệp để nắm bắt nhanh nhu cầu thị trường… Xóm Lò Gốm của Sài Gòn xưa đã có những điều kiện thuận lợi đó: nguyên liệu ở đây thích hợp cho việc sản xuất các loại gốm gia dụng và gốm xây dựng. “Nhất cận thị, nhị cận giang”, làng nghề này lại ở giữa Sài gòn - nơi tập trung nhiều phố chợ nhất miền Gia Định khi ấy: “phố xá trù mật buôn bán suốt ngày đêm, là nơi đô hội thương thuyền của các nước cho nên trăm món hàng hóa phải tụ hội nơi đây”. Nam bộ khi ấy là vùng đất đang trong quá trình khai phá nên nhu cầu về đồ gốm gia dụng rất lớn, do vậy thị trường của Xóm Lò Gốm không phải chỉ là Sài Gòn-Bến Nghé mà còn là cả miền Tây rộng lớn. Từ cuối thế kỷ XIX quá trình đô thị hóa diễn ra ở Sài Gòn-Bến Nghé và một số thị tứ ở Nam bộ, sản phẩm của Xóm Lò Gốm có thêm các loại hình mới phục vụ nhu cầu xây dựng, trang trí  kiến trúc của Đình, Chùa, Hội quán, phố chợ, công sở, nhà ở… Khảo sát các di tích cổ ở nhiều tỉnh Nam bộ đều thấy phổ biến các loại gốm trang trí, thờ cúng, nhiều di tích nổi tiếng với những quần thể tượng trang trí trên mái nhà hay tượng thờ, đồ thờ trong nội thất… Cái tên gốm sứ Cây Mai ở làng Lò Gốm có nguồn gốc từ địa điểm Cây Mai (nay là góc đường Hùng Vương - Nguyễn Thị Nho), một trong những lò cổ xưa của chậu Sài Gòn chuyên sản xuất từ ​​sinh vật sống đến sản phẩm phục vụ nhu cầu trang trí. Từ sản xuất gốm sứ dùng trong gia đình vào giữa thế kỷ 19; Đến đầu thế kỷ 20, để đáp ứng nhu cầu về chất lượng và mỹ thuật của người tiêu dùng gốm Cây Mai, một bước nữa là tạo ra các sản phẩm trang trí cho chùa chiền, đền thờ và nhà cửa. Mức độ này góp phần vào việc gốm Mai Mai trong gốm sứ Sài gòn cổ như là đỉnh cao của kỹ thuật gốm sứ             
Qua quá trình đô thị hoá, các thợ gốm ở Sài Gòn dần dần di chuyển đến khu vực ven biển, và Lai Thiệu là điểm đến lý tưởng, nơi có nguồn nguyên liệu dồi dào và thương mại thuận tiện đến các vùng khác thông qua cảng Bà Lụa.

Gốm Lái Thiêu tập trung vào việc sản xuất đồ dùng gia đình, từ đồ dùng tự phục vụ cho nhu cầu hàng ngày của người dân như bát, đĩa, nĩa, lọ, hộp, tượng, các sản phẩm sân vườn như chậu có Quang Hoa Xương, Hùng Lợi, Thái Xuong Hoa, Quang Hiệp Hưng, Duy An, Dao Xương, Vĩnh Phát, Hương Thanh.