Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2017

Sản phẩm gốm giả cổ ở thị trường Viêt Nam

Ai trong chúng ta đã đi vào một cửa hàng đồ cổ giả định rằng mọi thứ để bán là đồ cổ? Không ít tôi chắc chắn! Có nhiều khả năng rằng chúng tôi nghi ngờ nhiều mảnh được cung cấp như 'cổ vật' không phải là cổ xưa sau khi tất cả. Vậy ta phải làm sao? Thay vì tập trung vào những gì chúng tôi muốn mua, chúng tôi cố gắng để được chuyên gia ngay lập tức và xác định chính xác hay không.

Khoảng năm 1664, khi nhà Thanh đánh chiếm được Trung nguyên và hoàn thành sự nghiệp cai trị Trung Quốc vào năm 16802, ba vị hoàng đế Khang Hy, Ung Chính, Càn Long tự nhiên có ý thích dở người là lập Bảo tàng văn hiến Trung Hoa trong cung. Cũng dễ hiểu khi mà một bộ lạc chưa bao giờ được thấy những tinh mỹ vật chất của Trung Hoa, tự nhiên được làm chủ một đất nước rộng lớn đến như vậy, nhưng một nguyên nhân cũng không thể giấu giếm là được tiếp cận với tính thích sưu tầm và ưa đấu đá của người Châu Âu. Cả ba vị hoàng đế này thường có những sắc lệnh, thậm chí còn vẽ cả mẫu để các cơ sở đủ loại đẳng cấp chế tác. Chẳng gì để đảm bảo những mặt hàng ngự chế ấy chỉ độc bản trong tay hoàng đế. Lâu dần, phong cách chơi của các con trời cũng là trào lưu để các quý tộc hay quan lại, phú thương ... noi theo. Chơi đồ phỏng cổ lại trở thành phong cách.

Ảnh 1. Gốm sứ giả cổ  


Để làm đồ giả cổ người làm phải có một óc quan sát tinh tế, bàn tay khéo léo, trí tưởng trượng phong phú và sự am hiểu nhất định về món đồ mà anh ta định làm giả. Có thể mường tượng, anh ta là một họa sĩ tài ba, điêu khắc gia, nhà hóa chất và ... hơn cả là có vài % may mắn... Ở Việt Nam, một nghệ sĩ của đồ sứ giả cổ điệu nghệ mà tôi từng bắt chuyện làm quen là Chu Bá Tước ở Bắc Giang, một vùng trắng của truyền thống gốm sứ. Âm thầm sản xuất và cũng âm thầm tiêu thụ. Chỉ đến khi tham gia cuộc triển lãm hoành tráng của nghệ sĩ Trịnh Bách về trang phục cung đình triều Nguyễn, Chu nghệ nhân xuất hiện với vài món đồ mô phỏng sứ thanh hoa của triều Nguyễn với chất lượng khá cao.

Những sản phẩm của Chu nghệ nhân không chỉ dừng ở đó. Những mẫu gốm sứ tìm thấy trong các tàu đắm vớt được ở biển Việt Nam gần đây là những tiêu bản quý để Chu nghệ nhân thi triển . Bình thường, không ai dại gì bỏ 300.000 đồng (giá tại chỗ) ể mua một chiếc đĩa đường kính 30cm về dùng trong văn hóa ẩm thực. Đầu ra của các sản phẩm này là các shop lưu niệm tùy thuộc vào độ gà của dân chơi và dân du lịch. Một cơ sở quy mô hoành tráng hơn phải kể đến là cơ sở sản xuất gốm sứ Chu Đậu do Đại gia tập đoàn Hapro đầu tư ở chính quê hương gốm Chu Đậu tỉnh Hải Dương nếu không muốn kể đến Đại gia Hoàng Văn Bằng ở thủ đô gốm sứ trấn Cảnh Đức - Giang Tây.

Ảnh 2. Để làm ra được những món " gốm sứ giả cổ", tay nghề của người làm ra chúng phải rất cao và điêu luyện 



Những đồ gốm sứ cổ trong quá khứ mấy trăm năm về trước, nhiều lúc khai quật lên chúng ta đã không còn thấy rõ hình thù của chúng, nét hoa văn đã bị nhạt đi rất nhiều và khuôn gốm cũng không còn được như trước. Song, bên cạnh đó, để khôi phục lại hình ảnh của những chiếc đồ gốm cổ ngày xưa, các nghệ nhân khéo léo đã phục hình dáng của nó lại một cách sống động nhất nên người nghệ nhân đã làm giả cái đồ cổ đó. Nói đi cũng phải nói lại, bởi vì tính chính xác và chân thực từ chất liệu cũng như hoa văn của gốm cổ, nên để làm ra được những món “ gốm sứ giả cổ “, số lượng nghệ nhân làm ra được chúng chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Cùng giải oan cho gốm Chu Đậu Việt Nam

Trong bộ sưu tập của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, có một vật cổ khá ấn tượng và đẹp. Đây là một cặp bình bằng sứ cobalt Trung Quốc. Nó có thể nhắc nhở chúng ta rằng các đồ vật đã được làm cho những người giàu có trong thời phong kiến. Tuy nhiên, đây là nơi cất giấu tài liệu bí mật được gửi từ Hải Phòng về nước cho Đảng (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) vào năm 1932. Bình là một số ý tưởng liên quan đến cuộc cách mạng của Nguyễn Lương Bằng, nhà tiên phong Và sự lãnh đạo của ĐCSVN.. Có thể nói gốm sứ Việt đã có từ lâu đời và nó đặc trưng cho nền nghệ thuật của Việt Nam. Bên cạnh đó có nhiều câu hỏi được đặt ra như “ gốm Chu Đậu có thật là của Việt Nam hay không?
Giải oan cho gốm Chu Đậu
Gốm cổ trong dòng chảy phát triển, quá trình tìm kiếm và cả những câu chuyện thật giả  có một sức hút lạ kỳ với người yêu gốm. Là một trong những chuyên gia đầu ngành về gốm và cổ vật, TS Nguyễn Đình Chiến, nguyên Phó Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã chia sẻ những quan điểm về gốm trong dòng chảy đương đại thông qua những chuyến thực địa của ông trong nhiều năm lăn lộn, trải nghề.
Ở mỗi thời kỳ, những hoa văn, chất liệu và tạo hình chính là đặc điểm để gốm Việt tự kể câu chuyện về thời đại của chúng. Thời Lý-Trần (thế kỷ XI-XIV) ghi dấu ấn với dòng gốm men trắng, men ngọc, men hoa nâu, men lục và đặc biệt cuối thế kỷ XIV xuất hiện dòng gốm hoa lam. Từ thế kỷ XVI kéo dài đến niên hiệu Vua Gia Long đầu thế kỷ XVIII có dòng gốm men rạn Bát Tràng…
Và cùng với dòng lịch sử đó, PGS.TS Nguyễn Đình Chiến đã dùng gốm là phương tiện khám phá quá khứ, coi đó là phương thức để tìm câu trả lời cho những vấn đề mang tính thời đại. Là một nhà khoa học, ông trân quý gốm như là thành tựu của quá khứ và với ông, gốm đã góp phần tạo nên quá khứ. 
Ảnh 1. Các sản phẩm gốm cổ được khai quật tại làng Chu Đậu 

Trong lịch sử, gốm Chu Đậu Việt Nam đã từng bị hiểu lầm một cách đầy oan ức là gốm Trung Quốc. Cho đến khi được các nhà nghiên cứu chuyên sâu phát hiện và ra tay “giải cứu”, gốm Việt mới được “minh oan”, trong số đó có PGS.TS  Nguyễn Đình Chiến.
Những năm 80, 90 thế kỉ trước, Chu Đậu (Hải Dương) vẫn được coi là làng nghề sản xuất chiếu, cói, không ai biết đây đã từng là một làng nghề gốm đặc sắc. Cho đến khi có một số người đi tìm hiểu, khi ngồi nghỉ ở một bờ ao trong làng thì bị trượt chân phải bám vào vách đất. Không ngờ vách đất lở ra để lộ rất nhiều sản phẩm gốm cổ đã bị chôn vùi từ rất lâu. 
Sau khi nghiên cứu, nhà khảo cổ Tăng Bá Hoành, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hải Dương cho rằng nơi này rất có thể ngày xưa đã từng là một làng nghề gốm thủ công. Đến năm 1986, việc khai quật được tiến hành. 

Khi khai quật, người ta đã phát hiện ra hàng ngàn cổ vật gốm vô giá ở dưới độ sâu khoảng 2m. Từ đó đến năm 1991, nhiều cuộc khai quật nữa đã lại được tiến hành và rất nhiều những sản phẩm gốm độc đáo, đặc sắc tiếp tục được tìm thấy. Đến khi đó người dân Chu Đậu mới biết rằng từ xa xưa, trên vùng đất này đã hình thành nên một thương hiệu gốm cổ nổi tiếng. 
Trong tư liệu nghiên cứu của nhiều nhà sử học, trước đây Chu Đậu là làng sản xuất gốm đại trà, nhưng sau đó do cuộc chiến Lê  Mạc, cả làng bị san phẳng và nghề gốm ở nơi đây đã bị thất truyền. 

Nói tóm lại, gốm Chu Đậu là gốm đã hình thành từ rất xưa và được gọi là làng gốm cổ của Việt Nam, nó đích thực là gốm Việt Nam vì theo như kỹ thuật và mỹ thuật làm gốm của người Việt rất khác so với người Trung Quốc, đó là lí do không thể nói gốm Chu Đậu là của Trung Quốc được. Gốm Trung Quốc có một nét đặc biệt là hoa văn rất tinh xảo và lạ, nhìn sẽ biết nó khác với hoa văn Việt Nam. Đến thời điểm hiện tại, nhiều người nhìn vào gốm Chu Đậu cứ nghĩ là gốm Trung Quốc nhưng thật sự nghệ nhân tại Chu Đậu đã đạt đến trình độ nghệ thuật tinh xảo hoa văn như thế rồi.

Thứ Hai, 24 tháng 4, 2017

Kể chuyện về truyền thống gốm Việt

Sự tinh tế của đồ gốm đã không đồng đều với những thử thách khắc nghiệt và chiến tranh, bởi vì bất cứ thứ gì đã phá vỡ một cách dễ dàng đều không tương thích với bom và vũ khí gây cản trở cuộc sống của chúng ta. Mặc dù ông tôi có một bộ sưu tập đồ gốm, với chúng tôi, nó cũng có thể là vô hình. Dì của tôi đã mua những cái giỏ dệt lớn làm từ tre, đổ vỏ vào họ và giấu tất cả những đồ gốm quý giá bên trong để cất giữ bộ sưu tập đi trong tầng hầm hoặc tại nhà của một người bạn. Mặc dù vậy, tôi đã có thể nhìn thấy một ngày tết tương đối yên bình, mặc dù tôi không thể nắm giữ chúng trong tay của riêng tôi. Bánh pudding ngọt ngào dì tôi đã làm như một món quà thiêng liêng đã được đưa vào bát gốm trắng của ông nội tôi, được trang trí bằng hoa anh đào tinh tế. Tuy nhiên, khi ba ngày lễ kỷ niệm đã qua tuy nhiên, các bát đã được gửi trở lại vị trí của họ trong các giỏ của vỏ mà đã được gửi đến các nơi khác nhau khác nhau mà có thể giữ chúng giữa những xáo trộn.

Nhiều năm sau, tôi có dịp ngồi vào bàn ăn của một người Nhật. Sự quí tộc được nhìn thấy trong cách họ bày bàn ăn. Họ không dùng gốm sứ nguyên bộ như người phương Tây. Họ có một số ít từ cha mẹ, họ mua thêm mỗi lần đến một vùng nào đó làm gốm đẹp, họ được tặng... Có khách đến ăn cơm, họ sắp xếp đồ gốm cùng thức ăn trên bàn đẹp như một bức tranh, trong khi mỗi món gốm tự nó là một tác phẩm trọn vẹn; và cái chén đẹp nhất sẽ được dành cho người khách quí nhất, kèm với một câu chuyện nhỏ họ đã mua nó ở đâu, nó đã đi theo họ qua bao nhiêu năm rồi. Họ hỏi tôi về gốm Việt. Năm đó tôi chưa bao giờ thấy gốm thuần Việt thật đẹp. Chúng được làm ở những lò nằm ở vùng đất phía bên trên đất nước bị chia cắt của tôi, nên không biết trả lời sao. Chiến tranh qua đã lâu, người ta vẫn còn sẽ có nhiều lần thấy buồn vì nó. Sự gián đoạn của truyền thống là một.

Ảnh 1. Gốm sứ Việt Nam đã hình thành và phát triển từ lâu đời

Văn minh Việt Nam phát triển sớm. Các mảnh gốm cổ ở lưu vực sông hồng khoảng 2 ngàn năm trước Công nguyên cho thấy gốm đã được vuốt trên bàn xoay, đất sét mịn, khắc hoa văn tinh tế. Đời Lý, Trần, từ thế kỷ 14 có gốm phủ men trắng, men ngọc, nét khắc duyên dáng, với một quan niệm mỹ thuật tự tin và độc lập. Cuối đời Trần, và bước qua đời Tiền Lê cho đến đời Mạc, từ thế kỷ thứ 15, chúng ta có gốm vẽ lam. Mực được vẽ bằng cọ lông, nét cọ có độ dày mỏng, khi nung mực loang nhẹ, thấm vào men tạo sự mờ ảo, uyển chuyển trong sắc độ, nên gốm đã trở thành cái nền quan trọng để vẽ tranh trong khi nghệ thuật Việt nam chỉ chú trọng tới tượng chứ ít khi tới tranh. Men vẽ mực nhiều màu, tam thái, ngũ thái, đã được dùng trong giai đoạn này. Qua đến thời Hậu Lê - Trịnh, thế kỷ 16 - 18, chúng ta bắt đầu có men rạn, hơi dày và mịn màng như đá trắng, là một trong những thứ men đẹp nhất. Thời này giao thương nhiều, gốm Việt được bán sang Nam Dương, Thái Lan, Ấn Độ, Nhật. Các thương gia Hà Lan còn mang gốm Việt sang Trung đông và Âu châu. Thổ Hà, Bát Tràng, Phù Lãng... đã trở thành các làng gốm thịnh vượng.
Triều Nguyễn lập kinh đô ở Huế. Tuy ở Bát Tràng người ta vẫn còn làm gốm, vua chúa ra lệnh hoàng thành chỉ được dùng gốm sứ men lam được đặt làm từ những lò gốm bên Tàu. Nhiều người lầm tưởng men lam Huế làm ở Huế, thật ra nó chỉ có nghĩa là gốm hoàng gia, làm ở Tàu. Chiến tranh loạn lạc và sự thiếu trân trọng từ giới quí tộc là 2 yếu tố làm cho một trong những truyền thống gốm đẹp và quí nhất Á châu đi dần vào thất sủng, và tàn lụi. Từ đó và những năm về sau, hầu hết các làng gốm đóng cửa, thất truyền hoặc chỉ còn làm gốm gia dụng, bình dân.

Ảnh 2. Mỗi một sản phẩm gốm sứ chất chứa nhiều những thông điệp từ người làm ra chúng 

Một chiếc bát gốm nếu không bị vỡ sẽ luôn luôn là vô tận. Nó sẽ ở lại đây trong nhiều năm thậm chí ngay cả sau khi các thợ thủ công đã chế tạo nó sẽ đã biến mất. Bằng cách này chúng ta lớn hơn chúng ta, và theo cách này, chúng ta hiểu rằng ít nhất chúng ta có thể làm được như các học viên của nghề này là giữ lời hứa của chúng ta để làm cho nó đẹp đủ để vượt qua ngay cả thời gian và để chinh phục chủ sở hữu của nó, cho dù hôm nay Hoặc tại bất kỳ điểm nào khác trong thời gian. Chúng tôi hy vọng rằng, vì tình yêu mà chúng ta dành cho việc tạo ra nó, nó sẽ lại một lần nữa nhận được tình yêu tương đương từ những người sử dụng và thu thập nó.


Chủ Nhật, 23 tháng 4, 2017

Tìm hiểu về làng gốm sứ tại Hội An - mang tên Thanh Hà


Gốm sứ không chỉ là một nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam mà còn là phương tiện kiếm sống quan trọng. Làng gốm Thanh Hà ở Hội An là một ví dụ nổi tiếng về loại hình cơ sở này nhằm thúc đẩy truyền thống cũng như việc làm. Làng gốm Thanh Hà ở Hội An nằm ở tỉnh Quảng Nam thuộc phường Thanh Hà; Hội An nằm cách 3 km về phía Đông. Làng gốm có di sản lịch sử lâu dài gắn liền với nó.

Thời thịnh nhất phải kể đến những năm thế kỷ 17-18, cùng nhịp với sự phát triển của cảng thị Hội An. Bấy giờ, nhà nhà dùng đồ gốm. Người làng nghề gốm Thanh Hà gánh gồng, trung chuyển từ vùng quê này ra tới Thừa Thiên, đi khắp hang cùng ngõ hẻm đất Quảng - Đà. Nồi, ấm, khạp, chum vại... là những vật dụng quen thuộc từ vạt đất sét cuối sông Thu mà nên, vừa nhẹ lại vừa bền. Người làng còn làm ra ngói cong, gạch đỏ cung cấp cho các ngôi nhà cổ ở Hội An và khu vực lân cận. Tiếng tăm làng gốm Thanh Hà cứ thế mà vang xa!
Về sau, trải qua nhiều biến thiên của thời cuộc, làng gốm Thanh Hà có lúc tưởng chừng rơi vào quên lãng. Thế nhưng, với tâm huyết của một số nghệ nhân gắn bó cả cuộc đời với đất và lửa, gốm Thanh Hà dần được phục hồi. Đặc biệt, từ khi UNESCO công nhận đô thị cổ Hội An là “Di sản văn hóa thế giới”, làng gốm Thanh Hà đã trở thành điểm đến thu hút du khách trong và ngoài nước, gốm cũng chuyển mình thêm các sản phẩm mỹ nghệ đẹp mắt.

Ảnh 1. Những người thợ làm gốm phơi gốm trên nóc nhà

Quy trình sản xuất gốm Thanh Hà
Theo nghệ nhân lâu năm ở làng gốm Thanh Hà, từ khâu làm đất, lên bàn chuốt, qua đôi bàn tay nhào nặn trên chiếc bàn xoay, đến khi ra sản phẩm gốm Thanh Hà, đều tỉ mẩn, công phu. Nguyên liệu đất sét phải qua quá trình ủ để giữ độ ẩm, sau đó nhồi, đánh cho đất chín rồi mới bắt đầu tạo hình. Có những sản phẩm gốm cầu kỳ, đòi hỏi đất mịn thì phải qua thêm công đoạn lọc đất 2 - 3 lần để loại sạch tạp chất...
- Gốm thành hình thì đem phơi nắng một ngày rồi làm nguội để tạo những hoa văn tự nhiên, hoặc trang trí họa tiết theo yêu cầu. Cuối cùng mới đưa vào lò nung, canh củi lửa cho vừa, chỉ sơ suất một lúc cũng khiến cả mẻ thành gốm vụn.
Như thế cho đến nay, làng gốm Thanh Hà vẫn sản xuất thủ công với phương tiện và kỹ thuật truyền thống, trở thành một bảo tàng sống, một nguồn tư liệu quý giá về nghề gốm cổ truyền của Hội An nói riêng và của Việt Nam nói chung.
Du lịch làng gốm Thanh Hà
Đến tham quan làng gốm Thanh Hà, là dịp để du khách hiểu hơn về nghề truyền thống lâu đời, quan sát các công đoạn sản xuất gốm qua đôi bàn tay khéo léo của những nghệ nhân trong làng, và còn có thể tự tay sáng tác các sản phẩm theo trí tưởng tượng của mình, cũng như mua được những sản phẩm gốm ưa thích tận gốc.
Đặc biệt từ năm 2015, Công viên Đất nung Thanh Hà (còn gọi là Công viên gốm Thanh Hà hay Bảo tàng gốm Thanh Hà) chính thức đi vào hoạt động với diện tích hơn 6.000m2, cấu thành bởi gạch và đất nung, được đánh giá là lớn nhất và “độc” nhất cả nước hiện nay, thường xuyên tổ chức các chương trình triển lãm đặc sắc.

Ảnh 2. Những hình ảnh tuyệt đẹp tại làng gốm Thanh Hà

Ngoài ra, hằng năm cứ đến ngày mồng 10 tháng 7 âm lịch, người dân làng gốm Thanh Hà lại trang trọng tổ chức lễ Giỗ Tổ nghề tại khu miếu Nam Diêu, nhằm tri ân công đức tổ tiên đã gầy dựng, truyền nghề cho con cháu. Phần lễ với rước kiệu Tổ nghề gốm, được bảo tồn hàng trăm năm qua. Phần hội với các trò chơi dân gian như thi chuốt gốm, tạo mẫu, nặn tò he, nấu cơm niêu, đập nồi, kéo co... thu hút đông đảo người dân và du khách tham gia.

Làng gốm Thanh Hà ở Hội An đã sử dụng kỹ thuật trộn đất sét, thời gian nướng và nướng bánh và chế độ nhiệt để tạo ra các màu khác nhau như hồng, hồng nhạt, đỏ, nâu nhạt và mực đen trong các sản phẩm. Các thợ thủ công cũng điều chỉnh tất cả các khía cạnh này để đạt được độ bền bao la trong sản phẩm của họ. Bên cạnh các mặt hàng thường xuyên, Làng gốm Thanh Hà ở Hội An cũng nổi tiếng về gạch ngói có nhiều hình dạng và kích cỡ khác nhau. Trong thực tế, gạch ngói của nó có nguồn gốc từ địa phương cũng như nhiều khu vực nước ngoài. Đây là tên đáng tin cậy nhất cho các nhà thầu tham gia vào các nhiệm vụ đổi mới.

Đáng tiếc cho một làng nghề gốm cổ lâu đời nhất Đông Nam Á - Bàu Trúc

Ông Thọ - một người tại làng Bàu Trúc chia sẻ: "Không có hai sản phẩm gốm nào của Bầu Trúc, dù lớn hay nhỏ, đều giống hệt nhau, mặc dù người thợ gốm cố gắng làm cho chúng trông giống nhau và được nướng ở cùng một nơi theo cùng một cách".
Ông Đặng Chí Quyết cho biết: "Bàu Trúc có 479 hộ gia đình và có tới 180 hộ sản xuất đồ gốm ở trong nước. Hơn 600 người đang làm việc và khoảng 90% số hộ gia đình làm việc trong làng. ".
Ấy thế mà công việc nào cũng có những rủi ro của nó, tưởng chừng như mọi việc suôn sẻ nhưng càng lúc càng xuất hiện cạnh tranh về giá, về chất lượng sản phẩm, cũng như đối mặt với nguy cơ hàng ngoại nhập. Giờ đây người dân trong làng đang đứng trước nguy cơ bị mai một

Trước đây ở làng gốm truyền thống Bàu Trúc, nhà nhà đều nhộn nhịp với nghề làm gốm. Với bao công phu để nhào nặn tạo ra sản phẩm, với tâm huyết và lòng đam mê sáng tạo những chiếc lu, cái chậu, lò đun, ấm đất, tượng phù điêu được các nghệ nhân làm ra luôn mang đầy hơi thở cuộc sống, được mọi người biết đến. Từ đó làng nghề dần đổi thay và có bước phát triển. Cũng như bao làng nghề truyền thống khác, giờ làng gốm truyền thống Bàu Trúc cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách bởi “thiếu vốn đầu tư, yếu sức tiêu thụ”; nhiều nghệ nhân trước đây giờ tuổi cũng đã xế chiều, trong khi lao động trẻ có tay nghề lại chẳng mấy mặn mà, tâm huyết với nghề gốm. 
 
Ảnh 1. Một nghệ nhân nơi đây dù tuổi đã cao nhưng vẫn rất miệt mài tận tụy với nghề gốm này
Nói về khó khăn của làng gốm hiện nay, rất nhiều cơ sở, nghệ nhân làng gốm đều than thở vì không có vốn để đầu tư sản xuất. Để làm gốm thì phải cần nguyên liệu đất sét, cát, thế nhưng nguyên liệu ngày càng khan hiếm, giá cả lại đắt đỏ, trong khi sản phẩm làm ra chủ yếu là dùng để phục vụ đời sống hàng ngày, chỉ có giá 10.000 đồng/cái như lu, chậu, nồi đất, lò đất... Vất vả hơn, đây là những sản phẩm dễ vỡ nên vận chuyển đi các nơi xa rất khó khăn. 

Nghệ nhân Hà Mên (56 tuổi), ở Bàu Trúc, thị trấn Phước Dân bày tỏ: Tôi có thâm niên hơn 30 năm làm nghề gốm nhưng chưa bao giờ thấy làng gốm, nghề gốm truyền thống lại gặp khó như hiện nay. Trước đây chính quyền địa phương cũng tạo điều kiện vay 10 triệu đồng/hộ/năm để sản xuất gốm, nhưng nay vay phải thế chấp trong khi bà con không có tài sản gì lớn thế chấp nên không được vay. Để làm ra 500 cái lò đất nấu than thì cần một 1 m3 đất sét và 1 m3 cát, giờ đất sét có giá đến 300.000 đồng/m3, cát 250.000 đồng/m3, trong khi sản phẩm làm ra chỉ có giá 10.000 đồng/cái. Tính bán hết cũng được 5 triệu đồng nhưng nếu trừ chi phí như thuê công lao động, tiền mua nguyên liệu làm gốm, nguyên liệu đốt lộ thiên…cũng chỉ được dưới 1 triệu đồng. 

Là nghệ nhân trẻ đầy tâm huyết với nghề gốm truyền thống của đồng bào, anh Vạn Quan Phú Đoan lúc nào cũng khá trăn trở với nghề. Anh Đoan thổ lộ: Hồi năm 2014, chính quyền địa phương hỗ trợ đầu tư cho làng xây 2 lò nung gốm, nhưng lò nung này không phù hợp để nung sản phẩm tạo ra màu sắc truyền thống. Thấy vậy ai nấy cũng bỏ và chuyển sang nung lộ thiên bằng cách đốt nguyên liệu rơm rạ, củi, trấu… 
 
Ảnh 2. Hình ảnh gốm với họa tiết độc lạ nơi đây
Dù nung lộ thiên làm cho sản phẩm có màu sắc đẹp nhưng lại gây ô nhiễm môi trường. Khó khăn hơn nữa là do người dân làm tự phát, tạo ra sản phẩm rất bình thường nên không hút được thị trường. Các cơ sở làm gốm không có sự liên kết để tạo ra sản phẩm pha truyền thống lẫn hiện đại, đảm bảo chất lượng, mẫu mã đẹp. Do đó nghề gốm truyền thống rất khó đứng vững trước sự khắt khe của thị trường hiện nay. 

Ông Võ Viết Hiếu, Giám đốc Trung tâm khuyến công và Xúc tiến thương mại, Sở Công thương tỉnh Ninh Thuận cho biết, để bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề, năm 2014, UBND tỉnh đã quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như điện chiếu sáng, đường giao thông, lò nung gốm, nhà trưng bày sản phẩm khang trang… 

Đồng thời Trung tâm khuyến công cùng địa phương thường xuyên tổ chức tập huấn nâng cao tay nghề để sản phẩm gốm làm ra thực sự phong phú về chủng loại, đa dạng mẫu mạ, thu hút được thị hiếu thị trường. Thế nhưng do nhiều khó khăn khách quan nên làng nghề không phát triển như kỳ vọng. 

Theo UBND huyện Ninh Phước, làng nghề truyền thống gốm Bàu Trúc là niềm tự hào của đồng bào Chăm nơi đây nói riêng và của người dân trong toàn huyện nói chung. Làng nghề cũng có 1 hợp tác xã, 4 công ty trách nhiệm hữu hạn và 9 cơ sở sản xuất gốm. Tuy nhiên do nhiều khó khăn nên tất cả những con số này đều đã giảm so với trước. Nếu như cách đây khoảng 3 năm, cả làng có hơn 550 hộ đều làm gốm truyền thống thì nay con số này chỉ còn vỏn vẹn 150 hộ. 

Ngoài ra, theo ông Quyết, những gì mới trong làng là các chàng trai đã cuộn tay áo của họ và làm việc với đất sét để tạo ra sản phẩm chứ không chỉ để nó cho các cô gái, giống như trong quá khứ.
Một số nhà xưởng gốm ở Bầu Trúc đã nghĩ đến việc làm các đồ gốm gia đình một lần nữa. 'Nơi của tôi đã được thực hiện một số [hộ gia đình]. Họ bán khá tốt, vì vậy tôi tin rằng nhiều người sẽ làm các đồ gốm gia đình vì nó có lợi cho sức khoẻ và môi trường, "ông Kiều Lan, chủ một xưởng sản xuất, nói. Trong tương lai, mọi người ai cũng tin rằng làng gốm bàu Trúc sẽ vẫn tiếp tục đứng lên và trở nên mạnh mẽ như bất cứ khi nào vì đây là nghề mà được truyền từ đời này sang đời khác, một nét đặc trưng của làng và người dân nơi đây

  

SỰ ĐỔI MỚI TẠI LÀNG GỐM ĐÔNG TRIỀU- THỊ TRẤN MAO KHÊ

Gốm tại làng Mao Khê( còn được gọi là gốm sứ Đông Triều) đã phát triển gần đây hơn so với các làng gốm truyền thống khác ở Việt Nam với tư cách là thợ bậc thầy đầu tiên, ông Hoàng Bá Huy, bắt đầu hội thảo sản xuất gia đình vào năm 1955. Vài năm sau đó, năm 1958 ông thành lập Công ty Gốm sứ Đông Thành Tại làng Cầu Đất với một số hội thảo sản xuất gia đình khác. Đến cuối năm 1960, ông đã thành lập một hợp tác xã khác là Gạch Ngói Ánh Hồng tại thôn Vĩnh Hồng, thị trấn Mạo Khê.

Ở Mạo Khê hiện nay có 2 cơ sở sản xuất gốm sứ nổi tiếng nhất, đó là Công ty cổ phần Thái Sơn 88 và Công ty cổ phần Quang Vinh. Hai cơ sở này cung cấp hàng trăm nghìn sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ ở trong nước cũng như xuất khẩu ra nước ngoài.

Ảnh 1. Nghệ nhân làm gốm tại làng gốm Mao Khê 

Mạo Khê giờ đây nổi tiếng với nghề gốm sứ, nhưng sẽ còn nổi tiếng hơn với tư duy làm ăn, bởi họ đã vượt qua mặc cảm của chính mình để vươn ra khỏi “lũy tre” vốn còn tồn tại ở rất nhiều làng nghề trong cả nước. Việc tập trung hình thành các cơ sở mạnh đã cho thấy những bước đi vững chắc của một làng nghề truyền thống.

Những người dân có nghề làm gốm sứ nhưng không có vốn liên kết lại với nhau để tư duy, sản xuất ra những mặt hàng có giá trị kinh tế cao. Trước đây, nghề gốm ở Mạo Khê hình thành chủ yếu là sản xuất các sản phẩm mang tính chất gia dụng như dùng để chứa đựng, và sử dụng trong cuộc sống hằng ngày, chỉ có một số ít là để ngắm.

Nhưng bây giờ, cách làm ăn đó đã xoay ngược lại, họ xác định cần phải làm ra những sản phẩm đẹp, ấn tượng thì mới có giá trị kinh tế cao. Nói là làm, những người dân Mạo Khê cùng với các doanh nghiệp lớn tại đây đã cho ra đời những sản phẩm gốm sứ chủ yếu mang tính chất trang trí.
Ấn tượng nhất khi chúng tôi đến Mạo Khê là cách làm gốm sứ ở đây luôn được thay đổi theo thị hiếu của thị trường.
Ảnh 2. các sản phẩm gốm tại làng Mao Khê - Đông Triều

Đấy là lý do vì sao khi đến Mạo Khê, khách như lạc vào thế giới của gốm sứ. Hầu như không sản phẩm nào giống sản phẩm nào. Trong hàng nghìn sản phẩm được trưng bày, mỗi sản phẩm có một nét khác biệt, tùy theo từng đối tượng khách hàng mà họ đưa sản phẩm ra.
Nguyên liệu chính là loại đất sét trắng mềm từ làng Trúc Thôn và cao lanh chịu lửa khai thác ở thôn Tú Lạng, tỉnh Hải Dương. Để bắt kịp với hàng trăm năm tuổi biết làm thế nào, các nghệ nhân đã dành rất nhiều thời gian và công sức để tìm ra những phương pháp chuẩn bị vật liệu và cấu trúc lò nung hiệu quả nhất. Nhờ nghiên cứu sâu rộng và do nhiệt độ đốt cao nên gốm Đông Triều đảm bảo độ bền cao cũng như độ tinh khiết của men


Các cơ sở sản xuất gốm tại Mạo Khê đã tự biến vùng đất cha ông trở thành một điểm du lịch hấp dẫn. Trên trục đường 18, hầu như các đoàn xe chở khách mỗi lần ghé qua Mạo Khê đều chọn nơi đây là điểm dừng chân và các điểm sản xuất gốm sứ là nơi thu hút đông đảo du khách nhất. Có thể trong những đoàn khách, có những người không mua sản phẩm gốm do chưa có nhu cầu, nhưng khi trở về, chắc chắn một điều, họ sẽ nhớ đến vùng đất Mạo Khê có các cơ sở sản xuất gốm sứ với những sản phẩm có chất lượng. Và một ngày nào đó, họ sẽ quay trở lại vùng đất này. Đó là điều mà những doanh nghiệp ở đây mong muốn và họ cho rằng, sự bền vững phải bắt đầu từ sản phẩm. 

Thứ Sáu, 21 tháng 4, 2017

LÀNG GỐM SỨ CUỐI CÙNG TẠI BÌNH DƯƠNG

Trên đất nước Việt Nam tồn tại từ lâu đời, từ rất xa xưa đã bắt đầu hình thành truyền thống làm gốm, và từ đó các làng nghề gốm sứ dần dần ra đời và phát triển.

Từ đó đến nay, cũng đã phải chịu đựng sự gục ngã của biết bao làng gốm, thế mà đâu đó, trên mảnh đất nhỏ bé nhưng nghị lực sự quyết tâm không hề nhỏ, đã có một làng gốm vận còn theo đuổi cái nghề truyền thống này, đó là làng gốm Tân Phước Khánh – Bình Dương
Trong những năm qua, gốm sứ Bình Dương không những đã xuất ngoại để thu về nguồn lợi lớn, mà còn giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động tại địa phương.

Ảnh 1. Nghệ nhân đang tạo hình sản phẩm cho gốm 

Cùng với các làng nghề gốm sứ Bát tràng, Tràng An, Biên Hoà… gốm sứ Bình Dương cũng nổi tiếng trong và ngoài nước. Bình Dương hiện có gần 200 cơ sở làm nghề gốm sứ ở xã Thuận Giao, huyện Thuận An, huyện Tân Uyên… Tuy nhiên, gốm sứ Bình Dương đang tồn tại 2 thái cực trái ngược nhau. Một bên là hàng trăm cơ sổ gốm sứ truyền thống với các lò nung bằng củi, than đá, sản xuất theo phương pháp thủ công. Một bên, đại diện là gốm sứ Minh Long, với những ứng dụng máy móc, dây chuyền sản xuất hiện đại.
Việc bảo tồn một ngành nghề truyền thống và việc ứng dụng khoa học kỹ thuật tân thời để đưa gốm sứ Bình Dương vươn ra thị trường quốc tế cũng là một bài toán nan giải..
Ảnh 2. Nghệ nhân đang đổ nguyên liệu vào khuôn cho gốm

Nghề gốm sứ xuất hiện ở Tân Phước Khánh từ giữa thế kỷ XVII khi một thương nhân người hoa tình cờ đến Tân Uyên đã phát hiện ra loại đất quý màu trắng có thể làm gốm. Và ông đã định cư rồi đưa nhiều người đến đây cùng mở các lò sản xuất gốm sứ dọc theo con suối Hố Đại. Đến đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Tân Phước Khánh đã có khoảng hơn 10 lò gốm thủ côn với các sản phẩm gồm: bát, đĩa, ấm chén, chậu hoa, chân đèn, bình, lọ, tượng người, tượng thú, đôn hình con voi… thường là kích thước vừa và nhỏ. Nét đặc trưng của gốm sứ Tân Phước Khánh vào thời bấy giờ là đều được tráng men với màu sắc da lươn hoặc xanh lục đậu, còn ngày nay, men có thêm nhiều màu sắc khác nhau tùy theo yêu cầu của người tiêu dùng.

Ảnh 3. Hầu hết các công đoạn làm gốm đều được nghệ nhân làm bằng tay 

Gốm sứ Tân Phước Khánh hiện chủ yếu sản xuất để xuất ngoại, bình quân hàng tháng một cơ sở gốm sứ cho ra lò từ 10.000 - 20.000 sản phẩm xuất khẩu, thị trường chủ yếu là các nước châu Âu. Thực tế, để phù hợp với xu hướng phát triển và thị hiếu nhiều nước trên thế giới, gốm sứ Tân Phước Khánh từ lâu đã có sự pha trộn giữa nét truyền thống Việt Nam, Á Đông và phương Tây. Sản phẩm gốm sứ Tân Phước Khánh cũng từng tham gia nhiều cuộc triển lãm gốm sứ ở nước ngoài. nhiều công ty gốm sứ của Đức, Anh, Canada, Trung Quốc còn mở văn phòng đại diện tại Việt Nam để tiện giao dịch.


Có thể nói, để có thể tồn tại truyền thống giữ gìn làng gốm sứ này tại Bình Dương, trong thời đại kinh tế khó khăn, cạnh tranh mạnh mẽ giữa các quốc gia khác là một điều thách thức cực kỳ khó đối với các làng gốm sứ tại Bình Dương từ lâu đời. và đến ngày hôm nay, khi xã hội đã phát triển, mọi người đua nhau đi mua gốm sứ hàng ngoại thì tại đây, làng vẫn giữ truyền thống làm gốm sứ thủ công. Không những vậy, những người làm gốm nơi đây luôn mang trên mình một sự nhiệt huyết, không sợ hãi trước khó khăn, thử thách, sẵn sang hứng chịu nắng mưa để gìn giữ nền văn hóa truyền thống của làng.

Chủ Nhật, 16 tháng 4, 2017

KHÓ KHĂN TRONG VIỆC BẢO TỒN NGHỀ TRUYỀN THỐNG TẠI BÁT TRÀNG

Với thời buổi kinh tế hiện nay, khó khăn về tiền bạc cũng như vật chất, các làng nghề truyền thống Việt Nam càng phải đối mặt với nguy cơ bị mai một. Tại làng Bát Tràng – một niềm tự hào của người Hà Nội, hiện đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường cho sản phẩm của họ, đặc biệt là thị trường nước ngoài.

Khó khăn chồng chất

Về làng gốm sứ Bát Tràng (Gia Lâm - Hà Nội) những ngày này, không khí tấp nập, nhộn nhịp đã giảm bớt phần nào. Trước đây, Bát Tràng nổi tiếng là làng nghề phát triển tốt nhất trong thời buổi kinh tế thị trường, với kim ngạch xuất khẩu đứng đầu các làng nghề cả nước, hàng trăm "tỉ phú" cũng từ nghề gốm mà ra, hàng năm làng nghề Bát Tràng thu hút hàng triệu khách du lịch. Vậy nhưng, đến thời điểm này, việc sản xuất kinh doanh của Bát Tràng cũng gặp không ít khó khăn, lượng khách du lịch đến làng giảm, trong khi các đơn hàng bị cắt giảm, lượng hàng tồn kho tăng cao kỷ lục, khó khăn chồng chất khó khăn.

Theo ông Lê Xuân Phổ, Chủ tịch Hội Gốm sứ Bát Tràng, hiện nay toàn xã có khoảng 700 hộ sản xuất, kinh doanh gốm sứ, trong đó 400 hộ là hội viên của Hội. Cách đây 5 - 6 năm, làng gốm sứ Bát Tràng giải quyết việc làm cho khoảng 6.000 lao động địa phương và các nơi khác, nhưng giờ cũng chỉ còn khoảng 3.000 người. 60% hàng gốm sứ của Bát Tràng được xuất khẩu sang các nước châu Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc, đây là nguồn doanh thu lớn của làng nghề. Nhưng vài năm trở lại đây, hầu hết các đối tác nước ngoài cũng gặp khó khăn, nhiều đối tác giảm sản lượng hoặc không nhập hàng nữa. Trước đây, mỗi tuần cũng có khoảng 40 container hàng xuất đi các nước nhưng hiện nay giảm xuống chỉ còn khoảng một nửa. Ngay cả tiêu thụ nội địa cũng giảm sút, những năm trước, một tuần cũng có vài xe ô tô chở hàng vào miền Nam nhưng bây giờ lâu lâu mới có một chuyến. Giá nguyên liệu, giá ga, lương công nhân tăng cao khiến tất cả các cơ sở sản xuất ở đây phải xoay sở đủ cách để tồn tại. "Từ năm 2007, Bát Tràng có dự án chuyển từ lò hộp (lò than) sang lò gas, đến nay, toàn xã đã có 231 lò gas. Tuy nhiên do giá gas cao nên ảnh hưởng lớn đến việc sản xuất, vì vậy nhiều hộ vẫn giữ lò than gây ô nhiễm môi trường" - ông Phổ cho biết.
Ảnh 1. Hình ảnh từ ngoài nhìn vào, làng Bát Tràng đã không còn nhộn nhịp, và trở nên tĩnh lặng hơn xưa


Tự tìm kiếm khách hàng

Trong khi xuất khẩu giảm sút, việc tiêu thụ nội địa như là một cứu cánh duy nhất. Nhiều lò gốm Bát Tràng đã tích cực đa dạng các mặt hàng phục vụ khách hàng nội địa, thậm chí là khách hàng nông thôn nhằm cạnh tranh với hàng Trung Quốc về giá và chất lượng. Mẫu mà cũng thay đổi linh hoạt theo nhu cầu rẻ, đẹp, bền của người dân nông thôn. Công đoạn phối trộn nguyên liệu, gần đây đẩy mạnh mô hình công nghiệp tập trung, sau đó bán lại cho các hộ tạo hình, trang trí và hoàn thiện các công đoạn cuối. Năm ngoái đến nay, không những trộn máy, các cơ sở này còn làm thêm công đoạn khử từ để tách sắt ra khỏi nguyên liệu.

Trước những khó khăn đang phải đối mặt của các làng nghề nói chung và Bát Tràng nói riêng, trong những năm qua bằng nguồn kinh phí khuyến công Thành phố, Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Hà Nội đã tích cực triển khai nhiều chương trình, đề án giúp các doanh nghiệp, các hộ sản xuất, kinh doanh làng nghề Bát Tràng phát triển. Các chương trình hỗ trợ tập trung vào các nội dung như: Đào tạo nghề cho lao động, hỗ trợ đầu tư đổi mới thiết bị, tổ chức cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong làng nghề tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước... Trong 3 năm vừa qua đã có hàng trăm lao động làng nghề được đào tạo, hàng chục cán bộ kỹ thuật được tập huấn nâng cao kỹ năng thiết kế mẫu mã sản phẩm, hàng chục lượt doanh nghiệp được hỗ trợ tham gia các hội chợ triển lãm chuyên ngành thủ công mỹ nghệ trong và ngoài nước, nhiều cơ sở sản xuất được hỗ trợ đầu tư đổi mới thiết bị, kết quả từ các chương trình này góp phần tích cực giúp Bát Tràng vượt qua giai đoạn khó khăn. Bên cạnh việc hỗ trợ từ Thành phố, các hộ kinh doanh cũng phải tự xoay sở, bằng cách đẩy mạnh việc tìm kiếm khách hàng. Nếu như trước đây, khách hàng tự tìm đến Bát Tràng, thì nay các doanh nghiệp đã phải tự trở thành "kênh phân phối", tìm kiếm và đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
Ảnh 2. Những sản phẩm tại đây thiếu tính phong phú và độc đáo

Giấc mơ một công viên làng nghề

Bát Tràng có lợi thế lớn về du lịch làng nghề, đây cũng là hướng phát triển mà địa phương hướng tới. Những đợt cao điểm, mỗi ngày Bát Tràng thu hút khoảng 500 - 700 khách du lịch quốc tế và hàng trăm khách nội địa. Khách du lịch tham quan làng nghề thường mua luôn sản phẩm, vì vậy ngoài việc tập trung vào sản xuất, Bát Tràng còn có trên 100 cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm.
 Tuy vậy, Bát Tràng vẫn còn nhiều khó khăn, chưa khai thác hết tiềm năng và lợi thế du lịch làng nghề, đặc biệt do cơ sở vật chất phục vụ du lịch còn hạn chế. Ông Lê Xuân Phổ cho hay, hằng năm, Bát Tràng đón một lượng lớn khách đến tham quan mua sắm. Vậy mà nhiều khi khách về đông quá, nhất là khách du lịch nước ngoài muốn ở lại Bát Tràng qua đêm để được xem thực tế cảnh đốt lò nung gốm, địa phương cũng không thể đáp ứng được vì thiếu chỗ ăn, nghỉ. Việc một số cơ sở sản xuất vẫn gây ô nhiễm môi trường cũng làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động du lịch.
Hiện tại, UBND TP Hà Nội và các sở, ngành liên quan cũng đang đẩy nhanh tiến độ 2 dự án khôi phục, bảo tồn làng cổ và phát triển du lịch làng nghề Bát Tràng. "Nếu được UBND TP tạo điều kiện cấp đất qui hoạch khu du lịch (bao gồm cả các hạng mục như sân chơi, nhà nghỉ, trung tâm thương mại, chỗ ăn, chỗ ở…) để xây dựng Bát Tràng trở thành một "công viên làng nghề" thì chúng tôi rất vui, đây là mong muốn của tất cả người dân địa phương" - ông Phổ kiến nghị.

Theo các nhà kinh tế học cho hay, hiện nay nước ta đang gặp phải tình trạng suy thoái nền kinh tế, đổi mới chậm trong việc cải thiện mô hình sản phẩm, cạnh tranh gay gắt trên thị trường và hoạt động thiếu chuyên nghiệp của các hộ gia đình địa phương và doanh nghiệp.Trong bối cảnh đó, chính quyền thành phố và người dân địa phương đã làm cho mọi nỗ lực để phục hồi các làng nghề truyền thống lâu đời thợ thủ công địa phương nổi tiếng tạo ra sản phẩm gốm mang tem cá nhân của họ mà là hấp dẫn đối với một số lượng lớn các khách hàng các nhà sản xuất đồ gốm địa phương đang tập trung vào mở rộng thị trường trong nước trong khi tìm kiếm đối tác nước ngoài. Ngoài ra, họ cũng đang chú ý đến việc áp dụng công nghệ sản xuất mới, đổi mới mô hình và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình để đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng.

Thứ Sáu, 14 tháng 4, 2017

NÉT TINH HOA TRÊN SẢN PHẨM GỐM CHU ĐẬU

Ít ai biết được rằng, gốm Chu đậu là loại gốm cổ bậc nhất nổi tiếng về những dòng hoa văn trang trí ĐỘC – ĐẸP – LẠ MẮT, những người nghệ nhân nơi đây nổi tiếng về tay nghề mỹ thuật tinh xảo của mình. Họ luôn cho ra đời những sản phẩm với cách trang trí họa tiết lên mặt gốm một nét tinh xảo lạ kỳ. Bên cạnh đó, để có được trứ danh này, tại làng gốm Chu Đậu đã có những phương pháp làm gốm bật nhất mà những nơi khác khó mà bắt chước được. Sau đây chúng ta cùng tìm hiểu phương pháp làm gốm độc đáo – chỉ duy nhất có tại làng Chu Đậu.

Men gốm
   Men gốm Chu Ðậu rất phong phú: như men ngọc (celadon), men nâu, men trắng, men lục. Tuy nhiên tiêu biểu nhất là men trắng trong với hoa văn màu xanh (men trắng chàm) và men trắng trong với hoa văn ba màu vàng, đỏ nâu và xanh lục (men tam thái). Men ngọc, men trắng, men nâu và men nâu đen thường bị lẫn với đồ gốm đời Lý Trần, tuy nhiên, hoa văn trên men Lý nhiều ảnh hưởng Phật giáo, hoa văn Chu Ðậu phản ảnh đời sống nông thôn Việt Nam, hoa văn trên men Lý thường được vẽ bằng cách khắc chìm hay khắc nổi, hoa văn Chu Ðậu được vẽ bằng men màu.
   Các bát đĩa đời Lý thường còn dấu con kê rõ ràng; đồ gốm Chu Ðậu khéo hơn, dấu con kê không còn nữa. Ðáy các chén đĩa thời Lý thường để trơ đất mộc, đáy của đồ gốm Chu Ðậu thường được quét một lớp son nâu, màu đậm, thường khi vẫn còn nguyên dấu bút. Lớp son nâu này không phải là men, mà chỉ là một lớp son pha màu nâu rất mỏng để bảo vệ đáy chén đĩa. Ðây cũng là những đặc điểm phân biệt đồ gốm ta và đồ gốm Tàu. Gốm Tàu không bao giờ để trơ đất mộc, hay quét son nâu, cũng không có dấu con kê. Con kê là một kỹ thuật hoàn toàn Việt Nam. Kỹ thuật này dù làm cho món đồ kém đi chút phẩm chất, nhưng lại là một phát kiến riêng của người thợ Việt Nam, nhằm tránh cho chén đĩa không bị dính vào nhau khi nung mà lại tiết kiệm được diện tích lò.
Ảnh 1. Họa tiết hoa văn Thuần Việt của gốm Chu Đậu

   Men trắng chàm và men tam thái nổi danh và được ưa chuộng hơn cả. Men trắng chàm (nền men trắng, hoa văn màu xanh biếc) chiếm số lượng cao nhất. Các món đồ vớt được ở ngoài khơi Ðà Nẵng – Hội An cũng đều là men trắng chàm. Do đó, khi nói về đồ gốm Chu Ðậu, người ta chỉ thường biết về loại này mà ít để ý đến các loại men khác. Loại đồ gốm Chu Ðậu hạng nhất này nhiều món đẹp tuyệt vời, bứt xa đồ nhà Minh, và đẹp không kém gì đồ gốm men lam của nhà Thanh bên Tàu.
   Tuyệt vời nhất là hoa văn trên men trắng chàm và men tam thái, hình ảnh thuần túy Việt Nam. Họ vẽ tàu lá chuối, nhánh rong, chim sẻ, chim chích chòe, tôm, cá bống, cóc, rùa, cọng rau muống, bông hoa cúc, hoa sen. Cũng như các bình ấm Việt Nam đời trước, thảng hoặc lắm ta mới thấy một vài bình, ấm thời Chu Ðậu có quai cầm, còn ngoài ra, nơi quai cầm chỉ là một vật trang trí như con rùa, con cá, bông sen… như đồ gốm Việt Nam các thời trước.
Loại hình, kiểu dáng và hoa văn trang trí trên gốm Chu Đậu
   Hình dạng đồ gốm Chu Ðậu thật phong phú: Bát chân cao, bát chân thấp, tô, đĩa, chén, tước, bình, ấm, âu, chậu, lu, hũ, bát hương, bát trầm, chân đèn, hộp, lọ, bình vôi, nghiên mực, có cả nghiên mực hình con trâu, con cua, rồi lại còn đồ chơi của trẻ em như các hình tượng con gà, con cóc, con lợn, người cưỡi ngựa…, từ các món đồ dùng trong nhà người dân, trong đình chùa, trong nhà giới trưởng giả, cho đến đồ xuất cảng…
   Nhưng xem đồ gốm Chu Ðậu mà bỏ qua bình tỳ bà thì thật uổng. Ngoài các cuộc khai quật ở các lò gốm cũ ở làng Chu Ðậu, loại bình này thường được tìm thấy từ các tàu buôn đắm ngoài khơi Hội An – Ðà Nẵng. Như tên gọi, bình tỳ bà có hình dáng giống cây đàn tỳ bà để dựng đứng. Mình thuôn tròn, cổ nhỏ, miệng loe, thân tròn phình to, thường có bốn tầng hoa văn, trong lòng miệng bình cũng có hình vẽ hoa lá. Tầng thứ nhất ở chung quanh cổ bình hoặc vẽ những tàu lá chuối hay hình cây lúa; tầng thứ hai khi hình hoa cúc, hoa mẫu đơn, khi thì những chuỗi hình xoắn ốc đứng; tầng thứ ba lớn nhất là hình chim chích choè, chim sẻ hay là những ô vẽ đợt sóng biển, bên cạnh những ô vẽ hình hoa lá; tầng dưới cùng là các ô với những vòng tròn hình bầu dục chồng lên nhau.
Ảnh 2. Nghệ nhân miệt mài trang trí những đường nét hoa văn tuyệt mỹ trên gốm

   Tước (hay bôi) là ly uống rượu chân cao. Ngoài những tước men ngọc, màu xanh trong, còn có những sáng kiến kỳ diệu như tước thần kim quy. Ẩn trong chân tước này là một quả nổi để lộ hình rùa thần kim quy ngồi dưới đáy, khi rượu được rót vào, thì hình thần kim quy từ từ nổi lên theo mực rượu trong lòng tước.
   Ðĩa Chu Ðậu rất đẹp, men trắng trong với hoa văn màu chàm. Có những đĩa tam thái rất lớn, đường kính đến khoảng 50cm, nhưng thường thường thì vào khoảng hơn 25cm đường kính. Hoa văn trong lòng đĩa thường gồm hai phần. Vành đĩa rộng 5cm, vẽ cành rau, nhánh lá, tâm đĩa vẽ nhiều hình rất đẹp: Hình con công, con vạc, con nghê, cá chép vượt vũ môn, hươu chạy trên đồng cỏ, bên khóm trúc, bờ lúa, đôi chích chòe, đàn vịt bơi trên hồ sen, trận thủy chiến, cành mai, đóa cúc, đóa mẫu đơn… đường kính độ 15cm. Vành ngoài thành đĩa cũng vẽ những hình hoa lá rất chi tiết, hoa văn màu xanh chàm, đĩa lớn thường là men ba màu (Tam Thái). Cùng với bình tỳ bà và bát Chu Ðậu, đĩa Chu Ðậu là những món đẹp và nổi tiếng, được rất nhiều viện bảo tàng và nhà sưu tập quốc tế ưa chuộng.
Ảnh 3. Hoa văn trang trí đặc sắc trên bình hoa

Nhìn vào những hình ảnh hoa văn trên đồ gốm Chu Đậu, chúng ta có thể thấy được những nghệ sĩ tài hoa nơi đây đã khắc họa những nét họa tiết đậm chất thuần Việt. Trên những lọ hoa, và những cái bát đơn giản cho những bữa ăn hằng ngày khắc họa rõ nét những hình ảnh đời sống hằng ngày dân dã của làng quê đất Việt, những buổi trưa hè người nông dân đang miệt mài đi chăn trâu, cắt cỏ, và làm ruộng, những đứa trẻ thì nô đùa với nhau trong làng, những tiếng cười đùa trò chuyện của những người nông dân sau một ngày đi làm đầy mệt mỏi chiều tối đến tại tụ họp ngay làng… Điều đáng quý nhất mà những người tài hoa gốm Chu Đậu đã mang đến cho chúng ta đó là những sản phẩm với những nét hoa văn ĐẦY TÍNH THUẦN VIỆT, nhưng được vẽ với đầy nhiệt quyết, biết bao công sức cho ra đời những đường nét tinh túy, rõ nét, khắc họa chân thực không kém phần sống động về nét đặc sắc ở Đại Việt.


TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT GỐM THỜI LÝ VÀ THỜI TRẦN

Ngày xưa, nước Đại Việt ta nổi tiếng về gốm sứ, các làng làm gốm sứ cũng từ từ mọc lên và trở thành như một truyền thống của dân tộc. Nhưng ít ai biết được, trong thời kỳ xưa khó khan ở nước Nam ta, mặc dù cái nghề gốm này vẫn còn rất cổ và mộc mạc, nhưng vào 1 giai đoạn, nghề gốm này được phát triển vượt bật tối tân nhất, giai đoạn thời Lý – Trần, còn được gọi là thời kỳ VÀNG của gốm sứ Việt Nam.

Cái thời kỳ thăng hoa nhất trong lịch sử gốm sứ Việt Nam, không thể không nhắc đến đó là thời đại này. Tại vì sao mà khi nhắc đến gốm sứ, dân tộc ta liền nhớ ngay đến thời kỳ VÀNG này? Đó là vì, theo nghiên cứu cho đến ngày nay, chưa bao giờ có thời điểm nào mà gốm sứ Đại Nam phát triển một cách dữ dội như ở thời Lý-Trần. Một thời gian vô cùng dài cho giai đoạn này, 2 thời kỳ này kéo dài gần 400 năm, mặc dù mỗi thời kỳ là một phong cách riêng biệt, một tư duy nghệ thuật đặc trưng cho mỗi thời, nhưng có lẽ cách thức phương pháp kỹ thuật làm gốm đều có những điểm chung giống nhau.

Nếu như kiến trúc và điêu khắc thời Lý – Trần còn chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Champa và không ít công trình có người Champa tham gia xây dựng, thì gốm Lý – Trần không có đặc điểm gì chung với gốm Champa, và có thể nói gốm Champa không có gì để so sánh với gốm Lý – Trần. Người Champa quan tâm không nhiều đến nghệ thuật gốm, gốm với họ cốt chỉ để đựng tạm thời.

Giữa gốm thời Lý và gốm sứ Đường Tống Trung Hoa có nhiều đặc điểm chung về thẩm mỹ và kỹ thuật, nhất là phong cách nghệ thuật Lý rất gần gũi với phong cách nghệ thuật Đường, trong khi đó gốm thời Trần là cái gì đó rất riêng biệt, đặc biệt là gốm hoa nâu. Ở Trung Hoa người ta không tìm thấy được cái gì tương tự. Thực ra thì gốm Lý – Trần cũng không rơi từ trên trời xuống và không phải phát triển từ mảnh đất tưởng chừng như trống không của thời Bắc thuộc. Các kỹ thuật gốm đất nung và gốm mộ Hán trước thời Lý cũng được thời Lý tiếp thu rất sáng tạo.
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung
Như kim khám phá đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
Thuở trẻ không từng hiểu sắc không
Ngày xuân tâm sự rối hoa lòng
Chúa xuân nay đã từng quen mặt
Chiếu cọ giường sư ngắm bóng hồng.
(Trần Nhân Tông)
Theo các tài liệu truyền thuyết và lịch sử, cho đến thời Lý – Trần, gốm đã có ba trung tâm, mà còn tồn tại cho đến ngày nay, đó là làng gốm Bát Tràng, Phù Lãng và Thổ Hà, riêng làng Thổ Hà thì ngưng làm gốm đầu thế kỷ 20. Ba làng này do ba vị đại quan thời Lý – Trần là Đào Tiến Trí, Hứa Vĩnh Kiều và Lưu Phong Tú do đi sứ ở Trung Hoa học được nghề gốm mà truyền lại do dân làng. Bát Tràng thì sản xuất gốm sắc trắng, Thổ Hà gốm sắc đỏ, Phù Lãng gốm sắc vàng. Gốm sắc đỏ chính là đồ sành men nâu và đồ sành đất nung thô, gốm sắc vàng chính là gốm sành men da lươn. Riêng gốm sắc trắng chính là gốm men trắng và men trắng vẽ hoa lam của Bát Tràng. Loại gốm vẽ hoa lam xuất hiện nhiều vào thời Trần và được nâng thành đỉnh cao ở thời Lê sơ thế kỷ 15.
Ảnh 1. Đồ gốm thời Lý - Trần

Địa bàn có thể khảo cổ được của gốm Lý – Trần rất rộng, nhưng tập trung chủ yếu vào các tỉnh đồng bằng: Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa và Hà Nội. Đặc biệt trong các mộ chí vùng Mường xưa kia từ Lương Sơn hắt lên thị xã Hòa Bình cũng có nhiều gốm Lý – Trần chôn theo người chết. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, thì làng Bát Tràng hằng năm sản xuất gốm, đem bán mối lợi rất to, điều đó chứng tỏ, gốm Lý – Trần là mặt hàng thương mại quan trọng của hai thời đại đó. Trên một cái đĩa men ngọc thời Lý ở bảo tàng Lịch sử Việt Nam có vòng chữ thành hình tròn: Tố xuất phù dung dạng thanh khí/ Mại mãi khách nhân giai phú quý (Sản xuất đĩa gốm men ngọc vẽ hoa phù dung/ Khách mua bán đều là người phú quý). Chiếc đĩa này cho biết một thông điệp về tình hình thương mại đồ gốm có vẻ phát đạt vào thời Lý và con người thời đó không chỉ dùng đồ gốm để ăn uống thông thường mà nhu cầu thưởng ngoạn vẻ đẹp của món đồ cũng hết sức quan trọng. Không có đồ gốm Lý – Trần nào mà không đẹp, dường như cái đẹp là nhu cầu rất phổ biến của thời này, một chiếc chậu mà chúng ta nâng niu yêu thích thì vào thời đó chắc chỉ để rửa chân mà thôi, những chiếc thạp hoa nâu lớn bây giờ là một tài sản đáng giá thì vào thời Trần nó chỉ có chức năng như chiếc tiểu cải táng thông thường của người Việt.
Gốm Lý – Trần dù rất sang trọng nhưng dường như không có sự phân biệt giữa Quan diêu và Dân diêu, cách thức phân biệt của người Trung Hoa về loại gốm sứ dành cho vua quan và cho dân thường, được chế tác và nung từ hai cơ sở khác nhau, chất lượng khác nhau hoàn toàn. Cũng theo Nguyễn Trãi, thì các lò gốm trong nước hằng năm chọn những món đồ tốt nhất dâng lên triều đình, như vậy về căn bản không có sự phân biệt hoàn toàn giữa gốm dân gian và gốm nội phủ (dành cho vua chúa quý tộc). Gốm Đại Việt chủ yếu phân biệt ở chất lượng của từng sản phẩm, đặc biệt là cách nung hàng loạt dùng viên sỏi kê lòng, nên từng cái bát, cái đĩa đều có dấu ấn của ba đến năm vệt sỏi giữa lòng, còn đĩa bát chất lượng hơn thì lòng trơn, nghĩa là không kê một chồng mà nung từng chiếc một. Khi khảo cổ học đào bởi di tích Hoàng thành Thăng Long, đã tìm được những chồng bát nung dính vào nhau, người ta cho rằng ngay trong thành cổ có những lò gốm và như vậy thì bát dùng thông thường của quý tộc cũng không nhất thiết là phải nung từng cái một.
Gốm trắng nổi lên là loại gốm phổ thông, nhưng rất tinh nhã của thời Lý. Chúng được làm với nghệ thuật bàn xoay rất cao, dáng vuốt to nhỏ chênh lệch ngay trong đồ gốm rất lớn, thành gốm rất mỏng chứng tỏ một trình độ tạo hình thành thạo. Hình dáng thường là các loại bát nở miệng, thắt lại rất nhỏ ở chân đáy; những chiếc âu đủ các loại các cỡ, cái thì giống như bát khất thực của nhà sư, cái thì rộng lòng như quả dưa lớn; những chiếc đĩa đựng cong thành; những chiếc ấm hình quả dưa có vòi và quai, nắp rất cân đối. Men bên ngoài thành gốm, có lẽ đương thời rất trắng, nay tìm được từ lòng đất lâu năm ngả thành màu vàng nhạt hoặc vàng ngà, rất trong, bóng, và mỏng. Phần lớn các gốm trắng không có chút hoa văn nào, tự dáng hình và chất lượng men tạo ra vẻ đẹp của nó.
Ảnh 2. Hình ảnh gốm thời kỳ Lý - Trần

Gốm đen có một vẻ đẹp giản dị mà mạnh mẽ khác, thường đi với các loại đồ gia dụng loại nhỏ, những bát loe miệng có bôi màu đen như nước mật, đặc biệt là những bát màu đen có trang trí hoa văn chân chim. Những hoa văn này được in khéo tới mức, người ta có cảm tưởng người thợ dùng một cái chân chim ấn vào lòng bát, hay giống như một con chim đi qua lòng bát khi nó còn đang ở dạng đất ướt. Thực ra màu đen của gốm đen là biến thể của gốm hoa nâu, các ôxít sắt dùng làm màu vẽ có biến dạng màu khá phong phú, tùy theo độ nung như thế nào.
Đỉnh cao của gốm Lý được xác định là gốm men ngọc, khái niệm chữ Hán gọi là Thanh khí (đồ men xanh), người phương Tây gọi là gốm Celadon. Đặc điểm của gốm men ngọc có màu xanh ngọc bích và nhiều biến sắc của màu xanh đó. Men ngọc tạo ra nhiều cảm giác thẩm mỹ trái ngược, men rất trong nhưng nhìn thì rất đục, thành gốm dày nặng nhưng cảm giác rất mỏng nhẹ, hoa văn chìm (ám họa) nhưng nhìn rất nổi và tiếng gõ nghe trong trẻo như tiếng ngọc. Tất nhiên từ gốm men ngọc đến sứ men ngọc có một khoảng cách lớn về các giá trị thẩm mỹ khác nhau. Giữa gốm men trắng và gốm men ngọc có mối quan hệ qua lại mật thiết và vô số sản phẩm trung gian hình thành.
Con người thời Lý rất sang trọng, đồ đạc của họ nói lên điều đó. Chúng ta không biết người thời Lý ăn những món gì, nhưng đồ đựng của các món ăn cho thấy họ có cuộc sống lịch thiệp quý phái, có sự tinh tế mà đơn giản. Những chiếc bát hình bông hoa sen, hoa súng được chuốt các lớp cánh hoa nổi nhẹ lên thành gốm, miệng lượn cong hoặc trổ khuyết nhẹ từng điểm cách đều nhau, cầm cái bát trên tay mà như hứng một đóa hoa đang nở. Những chiếc ấm men trắng và hoa nâu thời Lý vừa đúng công dụng tùy từng kích cỡ, vừa đẹp mỹ mãn. Có những chiếc ấm tu chỉ nhỏ như quả quít, tức là người ta dùng cái ấm đó để uống luôn chứ không cần rót nước ra chén. Những chiếc ấm pha trà, đựng rượu có thể tích lớn như quả dưa bở hình khối rất nở nang, chân thắt nhỏ lại miệng loe cao và vòi nhỏ như một núm nổi trên thành mặt cong. Lại có cả những đồ đựng chiêu rượu hình con vẹt, hình tiên nữ đầu người mình chim (con Kinnari), mà lại có cả một đôi đực cái. Đồ đựng phấn là một chiếc hộp hai nửa chạm nổi cánh sen bên trong trổ hoa cúc dây, các quý cô quý bà sẽ nhón chút phấn hoa từ đó mà thoa lên má… Chỉ có những xã hội phát triển có tính tổ chức cao, lấy đạo Phật di dưỡng tinh thần, mới có thể sinh ra được những sản phẩm phổ biến và đặc trưng như vậy. Trong xã hội đó không có chỗ cho sự phàm ăn tục uống, sự nhỏ nhen và tỵ hiềm, một xã hội có vẻ rất bình an và đi tới bình an.
Xã hội Lý và xã hội Trần có nhiều vấn đề cách biệt, nhất là khi nhà Trần phải ba lần vất vả chống Nguyên Mông, một thế lực hùng mạnh trên thế giới lúc bấy giờ. Nhà Trần phải giải quyết nhiều mặt về tinh thần xã hội đối với sự thay đổi của Phật giáo sao cho thích hợp với thời cuộc, và giữ sự cân bằng cho đời sống dân sinh. Cái không khí hùng tráng của những trận đánh chống Nguyên Mông tạo ra âm hưởng cho nhiều nghệ thuật và văn thơ, trong đó có gốm. Gốm thời Trần bớt đi vẻ tinh nhã của gốm Lý, thay vào đó là sự bề thế, mạnh mẽ, cái đẹp của trí lực. Những chiếc bát chân cao cho thấy người cầm nó cũng cần phải khỏe tay, những chiếc thạp gốm khắc hình hoa sen và bôi màu nâu với hình khối lớn kết hợp hình dáng hoa quả và hoa sen, trở nên độc đáo không thời nào có được. Gốm hoa nâu thời Trần có vẻ gần gũi với nghệ thuật tạo hình hơn là đồ gốm có công năng.
Tục hỏa táng và cải táng có lẽ phổ biến trong tang ma của người Việt thời Trần. Cải táng mang tính truyền thống của dân Việt cổ, và hỏa táng do ảnh hưởng của Phật giáo từ Ấn Độ. Những chiếc thạp gốm lớn chính là một đồ vật dùng trong nghi lễ cải táng, nghĩa là sau khi bốc mộ, hoặc thiêu, thì cốt hay tro hài của người chết sẽ được đựng trong những chiếc thạp. Đôi khi người ta làm hai cái thạp lồng vào nhau, cái to đựng cái bé, cái bé đựng di hài. Những chiếc tháp kép được làm rất cầu kỳ: một tiêu bản của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cho thấy thạp nhỏ được nung trước (nung tới đâu, còn chưa biết), sau đó đặt thạp nhỏ vào trong thạp lớn chưa nung, rồi nung cả hai. Quá trình nung cả hai như vậy đôi khi hai sản phẩm co ngót khác nhau và làm hỏng cả hai. Đây là một kỹ thuật khá cao. Cốt gốm hoa nâu đương nhiên rất dày so với gốm trắng và gốm men ngọc, và với nhiều đồ đựng lớn, gốm hoa nâu được cấu tạo nhiều phần lắp ghép: nắp – miệng – vai – thân – chân đế. Xu hướng sản xuất chuyên nghiệp và tạo hình đơn giản quán xuyến nền gốm thời Trần.
Ảnh 3. Đồ gốm thời Lý-Trần được tìm thấy và trưng bày
Trong cốt gốm Lý – Trần thành phần gồm cao lanh và đất sét, hàm lượng cao lanh chỉ chiếm 50% đến 60%; khi nung ra, màu của đất khá xám chứ không được trắng như gốm Hồng Kông (mỏ cao lanh nằm ở Giang Tây, được coi có chất lượng tốt nhất thế giới, đến mức chẳng cần bất kỳ một máy móc nào để khử từ – loại bỏ các nguyên tố sắt trong đất cả). Mỏ đất sét trắng ở Việt Nam cho loại cao lanh trung bình, và có ở mỏ Trúc Thôn (Hải Dương), Giếng Đáy (Quảng Ninh). Về chất lượng cao lanh như vậy, gốm Đại Việt không tài nào nâng lên thành đồ sứ được cả. Muốn nung thành đồ sứ, trong nguyên liệu phải có đá bạch đôn tử, theo như Vương Hồng Sển, trong cuốn Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa, tỷ lệ pha trộn là 75% cao lanh, 25% bạch đôn tử. Cốt gốm Lý – Trần cũng được pha thêm bã thực vật, sau khi thành phẩm, cốt tương đối xốp và nhẹ. Người ta cho rằng do đặc điểm của cốt gốm không bạch đôn tử như vậy, nhiệt độ nung của gốm Lý – Trần chỉ đạt tối đa là 1.200 độ C, nên lò nung nhiệt cao là không cần thiết, nếu cốt gốm đó mà nung trên 1.270 độ C thì cấu trúc dễ vỡ hoặc giòn quắt, hoặc tự vỡ. Theo phán đoán thì nhiệt độ nung của gốm Lý – Trần đạt từ 1.100 độ – 1200 độ C.
Men trắng gốm Lý – Trần được chế từ phù sa và tro củi; men nâu từ oxit sắt và sunfua thủy ngân; men ngọc từ oxit sắt và oxit đồng. Trên gốm hoa nâu, người ta thường gạt đi một số chỗ men trắng để bôi màu nâu, có thể làm theo hai cách: nền trắng hoa văn nâu, hoặc ngược lại nền nâu hoa văn trắng. Màu nâu chế tạo từ đá son, bản chất của màu nâu đỏ và đen chế từ các oxit sắt và một thành phần nữa là sunfua thủy ngân, cái này nằm trong đá chu sa, thần sa, màu đen cũng chỉ là biến thể của màu nâu. Màu lục của gốm men ngọc do sự tham gia của oxit đồng, nhưng ít hơn nhiều so với sử dụng oxit sắt và oxit đồng tạo ra màu xanh khi nung trong môi trường oxy, thực chất là oxit sắt được nung trong môi trường khử, tức là môi trường thiếu oxy, tạo ra lửa hoàn nguyên. Công thức thì đơn giản như vậy, nhưng gốm luôn luôn là bí ẩn, phụ thuộc vào nhiệt độ lò nung tạo ra các phả ứng hóa học cụ thể với cốt và men gốm, cùng kinh nghiệm của người thợ. Kết quả của sản xuất gốm thủ công không lần nào giống lần nào, chỉ có thể tạo ra các sản phẩm tương tự chứ không lặp lại chính xác như gốm sứ công nghiệp. Các sắc độ màu trên đồ gốm Lý – Trần, ra rất phong phú, nhìn thoáng qua thì thấy giống nhau, nhưng đặt cạnh từng đồ, màu sắc rất khác. Màu men ngọc biến đổi từ xanh ngọc bích, xanh lục nhạt, lục sẫm, lục vàng, lục tím, tím xanh thẫm. Màu trắng cũng biến đổi vô cùng, trắng, trắng nhờ nhờ, trắng ngả vàng, trắng ngả xanh nhạt, trắng vàng, vàng và vàng sẫm. Màu nâu có từ nâu đỏ, nâu vàng, nâu nhạt, nâu đậm, màu nâu bánh mật, nâu sẫm, nâu rất sẫm, nâu đen và đen.

Thời đại ngày nay, không ít người đã cố gắng khai quật lại những cổ vật, những bức điêu khắc hay những sản phẩm gốm từ 2 thời đại Lý-Trần, những bậc cao niên nghề gốm cùng với những nghệ nhân tài hoa đều công nhận sự độc đáo tuyệt đối từ kỹ thuật đến mỹ thuật kĩ miều hoàn hảo của từng sản phẩm gốm. Có nhiều người đã làm lại một vài sản phẩm của 2 thời đại này và những sản phẩm ấy thực sự khiến người ta trầm trồ, mặc dù có một vài sản phẩm mà những nghệ nhân ngày nay không thể phục chế lại bởi vì sự nghệ thuật quá độc đáo và hiếm có của nó, có thể là vì chất lượng gốm của nó khó mà có thể làm lại được so với trình độ cao và khác biệt của thời đại xưa. Những con người tài hoa tinh tế bằng sự thong minh của mình đã tạo ra những sản phẩm khiến chúng trở nên thành những kiệt tác, không chỉ là kiệt tác ngày xưa, mà chúng còn là những kiệt tác lưu lại cho đến ngày nay.

Thứ Ba, 11 tháng 4, 2017

GỐM CỔ TỪ THỜI KỲ TIỀN SỬ ĐẠI VIỆT

Gốm sứ là một trong những nét văn hóa truyền thống của Việt Nam gắn bó từ bao đời nay. Từ xa xưa, dân tộc Việt Nam đã hình thành nghề gốm và làm gốm, nó bắt đầu từ gốm truyền thống, gốm qua các thời kỳ từ xa xưa lâu đời: thời tiền sử, thời kỳ đồ đồng, và thời đại đồ sắt. Để có một nét truyền thống vĩ đại của nghề gốm thời nay, chúng ta phải biết cảm ơn sâu sắc đến những nghệ nhân làm gốm, những con người cống hiến cả đời mình, bao những nỗ lực tận tâm được truyền từ đời này sang đời khác để giữ gìn và phát huy nét văn hóa truyền thống mang tính dân gian sâu sắc này.

Gốm sứ truyền thống từ xa xưa

Gốm cổ truyền Việt Nam đã có cách đây sáu, bảy ngàn năm. Gốm xuất hiện trong những di chỉ thuộc văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn, văn hóa Hạ Long... Rồi ta thấy trong di chỉ thuộc hậu kỳ đồ đá mới Phùng Nguyên, giai đoạn Đồng Đậu, giai đoạn Gò Mun... Đồ gốm cổ truyền nước ta đã có những bước phát triển cao và hết sức phong phú.
Trong truyền thuyết, sự xuất hiện của đồ gốm, đồ sứ như một điều bí hiểm, linh thiêng “Đồ gốm, sứ là loại chất bột nằm sâu trong lòng đất, ở những nơi linh thiêng có ma quỷ canh giữ. Muốn khai thác được phải chọn ngày lành tháng tốt. Lên tới mặt đất, nhờ ánh sáng chói lọi của mặt trời soi dọi chất bột đó mới biến thành gốm, sứ...”
Thực ra đó chỉ là truyền thuyết ly kỳ để tăng cái phần quan trọng của kỹ nghệ gốm, sứ xa xưa. Thực chất hàng gốm, sứ ra đời nhờ đôi bàn tay khéo léo và đầu óc sáng tạo của người thợ thủ công. Lịch sử Việt Nam, tập 1, trang 38 có ghi: “Trong giai đoạn Phùng Nguyên, kỹ thuật tạo chế đồ đá đã đạt đến trình độ cực thịnh. Những chiếc rìu, vồ đục... quy mô to nhỏ khác nhau, được chế tạo bằng cách mài, cưa khoan, rất hoàn thiện. Những vòng tay, hoa tai, hạt chuỗi... bằng đá được chau chuốt, tiện, gọt tinh vi. Những loại hình đồ gốm (nồi, bát, cốc, vò...) có hình dáng đẹp, chắc, khoẻ, phần nhiều đã được chế tạo từ bàn tay. Mặt ngoài đồ gốm phủ đầy hoa văn trang trí với những đường vạch sắc sảo, những nét cong uyển chuyển, mềm mại, được phối trí, đối xứng và hài hòa. Đó là một biểu hiện về óc thẩm mỹ khá cao của người Việt Nam lúc bấy giờ....”
Ảnh 1. Hình ảnh gốm sứ truyền thống Việt

Vậy là kỹ nghệ gốm giai đoạn Phùng Nguyên (cách ta gần 4.000 năm) ở nước ta đã phát triển mạnh. Con người buổi đó đã biết nghĩ ra bàn xoay và chế tạo ra thứ men để phủ ngoài, tăng thêm vẻ dẹp kỳ diệu của đồ gốm.
Đây là một thời kỳ của nước Văn Lang. Cho tới thời Âu Lạc, kỹ nghệ gốm đã phát triển mạnh lắm. Nghề nung gạch, làm ngói... cũng đã có từ ngày này.
Phải nói thời cực thịnh của gốm sứ là thời kỳ Lý - Trần (thế kỷ XI - XIV). Đó là những năm đất nước phồn thịnh, kinh tế mạnh mẽ, quân sự vững mạnh, văn hóa phát triển, đất nước an bình, mọi kỹ nghệ được khuyến khích phát đạt.
Nghề gốm, xem ra phát triển rải rác khắp đất nước. Ở tỉnh nào cũng có những vùng làm nghề gốm. Cứ ven các dòng sông, chúng ta gặp nhiều mảnh sành, mảnh gốm còn vương sót lại. Hoặc chúng ta gặp những dãy lò gốm đang ăn khói nghi ngút. Những trung tâm sứ gốm ở nước ta, xuất hiện từ thời Lý - Trần mà đến nay vẫn còn hưng thịnh nghề nghiệp, đó là Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà, Phù Lãng (Bắc Ninh), Hương Canh (Vĩnh Phúc), Quế Quyển (Hà Nam Ninh), Chum Thanh (Thanh Hóa)... Mỗi vùng quê gốm lại giữ kỹ nghệ riêng biệt. Và mỗi nơi, lại có mặt hàng gốm đặc trưng riêng của mình, tạo thêm cái đa dạng và phong phú của công nghệ gốm Việt Nam. Nếu nói trung tâm gốm ở nước ta, phải nói tới Bát Tràng - Thổ Hà – Hương Canh. Một đặc điểm riêng biệt và rõ nét nhất của nghề gốm là đều phát triển dọc sát các triền sông. Bởi lẽ nó tiện đường chuyên chở, và đất sét dọc các triền sông là thứ nguyên liệu quý để sản xuất gốm, sứ.

Ảnh 2. Gốm thời kỳ tiền sử
Gốm thời tiền sử: những sản phẩm đất nung được phát hiện cho thấy ở giai đoạn đầu thường thô có pha lẫn cát hoặc các tạp chất khác, được nặn bằng tay, hoa văn đơn giản ở phía ngoài như các vạch chéo, vân sóng, vân chải răng lược... Các hoa văn này được tạo ra khi sản phẩm còn ướt, một số được tạo bằng bàn dập hoặc dùng que nhọn để vẽ, vạch.

Các nhà chuyên môn cho rằng trong suốt thời gian dài, từ lúc phát minh ra đồ gốm tới đầu thời kỳ đồ đồng, phần lớn gốm được hình thành bởi bàn tay của phụ nữ (vân tay để lại trên sản phẩm cho thấy điều đó); được nung ngoài trời, nhiệt độ thường dưới 700ºC. Các sản phẩm gốm thời kỳ này là đồ đựng, đồ đun nấu, về cuối ta thấy xuất hiện thêm các loại đồ dùng để ăn uống, trang sức.

Thời kỳ đồ đồng: ở Việt Nam (cách đây 4 nghìn năm), hầu hết các sản phẩm gốm được hình thành bằng bàn xoay một cách khá thành thạo, do vậy tạo nên sự phong phú về chủng loại và kiểu dáng sản phẩm: ngoài các sản phẩm đun nấu còn thấy những sản phẩm gốm để chứa đựng, dụng cụ ăn uống, trang sức, công cụ lao động và gốm mỹ thuật. Về trang trí, gốm đất nung chủ yếu có các hoa văn hình hoạ, nét chìm là chính. Một số sản phẩm được xoa một lớp áo bằng nước đất khác màu nhưng chưa phải men. Các hoa văn trang trí và cách tạo dáng của gốm giai đoạn này có ảnh hưởng đến tạo dáng và trang trí trên đồ đồng cùng thời.

Thời đại đồ sắt: gốm đất nung được sản xuất hầu như khắp các vùng trong nước. Chất lượng gốm còn non lửa và vẫn thô sơ nhưng về tạo dáng và trang trí thì chưa có thời kỳ nào đặc sắc và phong phú bằng. Hiện vật thời kỳ này cho thấy nghề gốm vẫn gắn bó với nghề nông nhưng nam giới đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất.

Đến thế kỷ 2 trước Công nguyên Việt Nam bị rơi vào ách thống trị của phong kiến phương Bắc. Nghề gốm tiếp tục phát triển trên vốn kinh nghiệm cổ truyền, có tiếp thu ảnh hưởng của gốm Trung Hoa. Về chủng loại sản phẩm, xuất hiện thêm loại gốm kiến trúc như gạch, ngói. Ngoài ra còn có các tượng động vật nhỏ như lợn, bò với kiểu nặn sơ sài. Phong cách gốm thời kỳ này mang phong cách Hán hoặc kết hợp hoa văn Việt và hoa văn Hán. Nhiều sản phẩm gốm Hán khác được cải biên theo phong cách Việt.


Từ những nghiên cứu về gốm Việt Nam ở các thời kỳ lịch sử lâu đời này cho chúng ta thấy được sự lịch sử nghề gốm đã hình thành từ lâu và dấn phát triển theo hướng truyền thống riêng biệt, từ lúc chưa có sự phát triển kỹ thuật tiên tiến, những nghệ nhân xưa chỉ sử dụng các dụng cụ thô sơ để tạo nên những đồ gốm phục vụ cho cuộc sống con người hằng ngày là chính. Và gốm đã cùng phát triển song song với quá trình phát triển của lịch sử đất nước ta cho đến bây giờ.